Góp ý của Đại biểu Quốc hội Lê Thị Nga – Thái Nguyên

Thứ Ba 09:07 17-11-2009

Kính thưa Quốc hội.

Tôi xin phát biểu về vấn đề bỏ quy định về lãi suất cơ bản trong Luật Ngân hàng Nhà nước.

Thưa Quốc hội,

Lãi suất cơ bản là một nội dung rất quan trọng, đây không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, xã hội, thể hiện vai trò định hướng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, nhằm góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Khoản 12, Điều 9, Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành quy định: "Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh". Trên thế giới các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật đều dùng công cụ lãi suất cơ bản với mục tiêu góp phần điều tiết thị trường lãi suất. Gần đây nhất, ngày 11/11 vừa qua Báo Lao động có đưa một tin rất đáng chú ý Ngân hàng Trung ương Nga sẽ cắt giảm 0,5% lãi suất cơ bản trong tháng này. Trong 6 tháng qua ngân hàng này đã cắt giảm lãi suất cơ bản 8 lần, sau lần cắt giảm, dự kiến sắp tới lãi suất cho vay sẽ ở mức thấp kỷ lục là 9,25%. Như vậy tại thời điểm này Nga vẫn sử dụng công cụ này để điều tiết thị trường lãi suất cho vay. Báo Tài chính ngày 12/11 cũng đưa một tin là Ngân hàng Trung ương Nhật đã quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 0,1%.

Kính thưa Quốc hội!

Ở Việt Nam lãi suất cơ bản được quy định trong nhiều văn bản pháp luật và có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các mặt sau:

Một, lãi suất cơ bản là công cụ để Nhà nước định hướng và kiểm soát lãi suất thị trường.

Hai, lãi suất cơ bản là tiêu chí để Nhà nước xác định mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức, cá nhân, trong đó có các tổ chức tín dụng theo Điều 476 Bộ luật dân sự mức trần này không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản.

Ba, lãi suất cơ bản là tiêu chí để xác định mức của nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Điều 305, 436, 474, 576, 709 Bộ luật dân sự.

Lãi suất cơ bản là tiêu chí để xác định mức lãi suất, cao nhất nên đây là căn cứ để xác định tội cho vay lãi nặng theo Điều 163 của Bộ luật hình sự.

Như vậy có thể nói trong 12 năm qua bằng quy định về lãi suất cơ bản trong hệ thống pháp luật thì Nhà nước đã thể hiện vai trò định hướng của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về cho vay vốn, để các quan hệ này diễn ra một cách trật tự, lành mạnh, ổn định cơ bản thị trường tiền tệ, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng cho vay lãi nặng, mang tính bóc lột không phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.

Vậy trong thực tế thị trường tiền tệ thời gian gần đây nảy sinh vấn đề gì, có liên quan đến lãi suất cơ bản và cách giải quyết của Ngân hàng Nhà nước như thế nào? Từ năm 2006 đến nay tình trạng các tổ chức tín dụng cho vay vượt trần lãi suất cơ bản, đã trở nên khá phổ biến. Điều này đặt các ngân hàng thương mại trước một nguy cơ bất lợi lớn về mặt pháp lý là, nếu người đi vay khởi kiện thì các hợp đồng vay này sẽ bị tòa án tuyên vô hiệu và hậu quả là các ngân hàng sẽ không nhận được phần lãi theo thỏa thuận. Để giải quyết tình trạng vi phạm trên, với vai trò là thành viên Chính phủ quản lý Nhà nước về lĩnh vực này, thay vì phải xử lý các tổ chức vi phạm và làm bình ổn thị trường lãi suất thì Ngân hàng Nhà nước lại ra tay cứu các tổ chức tín dụng bằng các động thái như sau:

Ngày 22-11-2006 Thống đốc Lê Đức Thúy thay mặt Chính phủ có Tờ trình số 15 đề nghị Thường vụ Quốc hội Khóa XI, trình Quốc hội ra nghị quyết cho phép các tổ chức tín dụng không bị điều chỉnh bởi quy định về trần lãi suất tại Điều 476 Bộ luật dân sự, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội không đồng ý với đề nghị này.

Ngày 15-2-2007 Thống đốc Lê Đức Thúy lại có Tờ trình số 13 và đề nghị Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 476 cũng theo hướng là điều luật này không điều chỉnh các tổ chức tín dụng, Ủy ban Pháp luật không đồng ý với lý do là điều luật này đã rõ. Phải áp dụng cho cả tổ chức tín dụng và cho cả cho vay trong dân cư, không thể giải thích theo ý muốn chủ          quan của Ngân hàng Nhà nước.

Ngày 23-3-2008 Thống đốc Nguyễn Văn Giàu tiếp tục có Tờ trình số 23, trình Thường vụ Quốc hội đề nghị sửa Bộ luật dân sự theo hướng quy định lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng không tuân theo Bộ luật dân sự, mà tuân theo quy định của Pháp luật về ngân hàng. Và hơn thế nữa còn đề nghị cho phép áp dụng hồi tố sau khi sửa luật để hợp thức hóa cho những vi phạm của các tổ chức tín dụng đã xảy ra từ ngày 1-1-2006 đến nay. Thường vụ Quốc hội không đồng ý và yêu cầu xem xét cùng một lúc cả Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng và Bộ luật dân sự với mục đích để đảm bảo đồng bộ về mặt chính sách.

Ngày 14-4-2008 Thống đốc Nguyễn Văn Giàu lại ký Tờ trình, trình Thường vụ Quốc hội sửa Điều 476 Bộ luật dân sự theo hướng nâng trần lãi suất cho vay bằng 200% lãi suất cơ bản, Ủy ban Pháp luật không đồng ý và khẳng định tại Báo cáo Thẩm tra số 306 là nguyên nhân của những vi phạm trong thời gian qua của các ngân hàng thương mại trong việc cho vay vượt trần lãi suất, không phải do lỗi của quy định về lãi suất cơ bản trong Luật ngân hàng Nhà nước, cũng không phải do lỗi của Điều 476 Bộ luật dân sự, mà chính là do Ngân hàng Nhà nước chưa làm tròn trách nhiệm, chưa nhận thức đúng ý nghĩa, vai trò của lãi suất cơ bản, nên chưa sử dụng tốt công cụ này để điều tiết ổn định thị trường tiền tệ và do các tổ chức tín dụng không thực hiện đúng quy định của Bộ luật dân sự, kết quả là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi Bộ luật dân sự.

Với mục đích giúp các ngân hàng thương mại tránh hậu quả pháp lý do vi phạm trần lãi suất cho vay đã, đang và sẽ xảy ra, sau 4 lần trình Thường vụ Quốc hội không thông qua được, lần này Ngân hàng Nhà nước lấy danh nghĩa Chính phủ chọn một giải pháp khác là lặng lẽ bỏ quy định về lãi suất cơ bản tại Điều 9 của luật hiện hành. Trong Tờ trình của Chính phủ không hề có một lời giải thích với Quốc hội là vì sao phải bỏ.

Tại Điều 91, dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã đưa các tổ chức tín dụng thoát khỏi trần lãi suất trong Bộ luật dân sự. Cả hai dự thảo này đều để một van khóa rất mù mờ là trong trường hợp cần thiết hoặc trong trường hợp có diễn biến bất thường của thị trường, thì Ngân hàng Nhà nước có quy định về cơ chế xác định lãi suất của các tổ chức tín dụng. Xin lưu ý Quốc hội, cơ chế lãi suất và trần lãi suất là hai vấn đề khác nhau, trường hợp cần thiết là trường hợp nào cũng không thấy quy định rõ, do đó rất khó kiểm soát thị trường lãi suất.

Như vậy từ năm 2006 đến nay Ngân hàng Nhà nước theo đuổi một mục tiêu rất kiên trì là đưa các tổ chức tín dụng thoát khỏi sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, hợp thức hóa cho các vi phạm của các tổ chức tín dụng về tự do hóa lãi suất. Vậy một câu hỏi lớn được đặt ra ở đây là việc kiên trì đề nghị sửa đổi luật như vậy là nhằm mục tiêu bảo vệ cho lợi ích của ai, của Nhà nước, của nhân dân để ngăn chặn việc cho vay lãi nặng, ổn định thị trường tiền tệ, hay bảo vệ lợi ích cục bộ của các tổ chức tín dụng. Chúng tôi thấy rằng việc bỏ quy định về lãi suất cơ bản trong Luật ngân hàng Nhà nước sẽ dẫn đến những mâu thuẫn lớn sau:

Một, Nhà nước sẽ mất vai trò định hướng, thị trường lãi suất có thể dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất huy động và lãi suất cho vay gây rối loạn thị trường đẩy người dân và doanh nghiệp phải vay với lãi suất cao và góp phần làm mất giá đồng Việt Nam.

Hai, không kiểm soát được tình trạng cho vay lãi nặng của các tổ chức tín dụng và vay lãi nặng trong dân cư.

Ba, điều quan trọng là làm vô hiệu hóa 6 điều của Bộ luật dân sự, 1 điều của Bộ luật hình sự và đẩy hoạt động của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và tòa án vào bế tắc vì không còn căn cứ để giải quyết. Đặc biệt là bế tắc trong giải quyết các vụ án dân sự.

Từ những phân tích trên chúng tôi đề nghị:

Một, đề nghị Chính phủ phải giải trình rõ với Quốc hội vì sao phải bỏ lãi suất cơ bản, về mặt chính sách vĩ mô của Nhà nước thì việc bỏ lãi suất cơ bản sẽ được gì và mất gì, có gây mâu thuẫn gì trong hệ thống pháp luật và điều quan trọng là kinh nghiệm của quốc tế về vấn đề này như thế nào, trong tờ trình hiện nay chưa hề có một dòng nào đề cập đến những vấn đề trên.

Hai, đề nghị Ủy ban pháp luật của Quốc hội có phát biểu chính thức trước Quốc hội về việc đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với hai dự thảo Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi.

Thứ ba, đề nghị chánh án tòa án nhân dân tối vao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến của hai ngành về cách giải quyết những bế tắc trong hoạt động tư pháp nếu quy định về bỏ lãi suất cơ bản được Quốc hội thông qua.

Thứ tư, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa nội dung bỏ lãi suất cơ bản trong Luật ngân hàng Nhà nước và nội dung tự do hóa lãi suất trong Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng để thảo luận và xin ý kiến của Quốc hội, đây là vấn đề rất quan trọng và ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Xin cảm ơn Quốc hội.

Các văn bản liên quan