Đại Biểu Nguyễn Thị Nhung tỉnh Khánh Hòa góp ý dự thảo Luật hải quan (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 7 của QH

Thứ Sáu 15:39 05-12-2014

Nguyễn Thị Nhung - Khánh Hòa

Kính thưa Đoàn Chủ tọa kỳ họp,

Kính thưa Quốc hội,

Cơ bản tôi thống nhất với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban thường vụ Quốc hội với dự thảo Luật hải quan (sửa đổi). Trên cơ sở gợi ý của Đoàn thư ký kỳ họp, tôi xin đóng góp một vài điều luật như sau:

Thứ nhất là về giải thích từ ngữ tại Điều 4 hồ sơ hải quan, trong Khoản 10 nội dung giải thích về hồ sơ hải quan như dự thảo là chưa đầy đủ. Vì ngoài các chứng từ phải nộp hoặc xuất trình thì Tờ khai hải quan cũng là một thành phần cơ bản của hồ sơ hải quan hưng lại không có trong nội dung giải thích. Hơn nữa các thành phần của hồ sơ hải quan đã được quy định rõ tại Điều 23 của dự thảo nên tôi đề nghị chúng ta bỏ giải thích từ ngữ đối với cụm từ "hồ sơ hải quan" ở Khoản 10, Điều 4.

Khoản 16 nội dung này thực chất là giải thích từ ngữ đối với cụm từ "cơ chế hải quan một cửa quốc gia". Còn cơ chế một cửa quốc gia thì có nội hàm rộng hơn bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Vì vậy, đề nghị chỉnh lại thành cơ chế hải quan một cửa quốc gia. Theo đó, rà soát để sử dụng cụm từ này thay cụm từ "cơ chế một cửa quốc gia" trong toàn bộ nội dung dự thảo.

Thứ hai là về Điều 6, Điều 6 về hoạt động hợp tác quốc tế về hải quan, tại Khoản 1, Điều 6 có nêu rõ trách nhiệm của hải quan là đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện các Điều ước thỏa thuận quốc tế về hải quan theo tôi là không phù hợp, vì theo Luật ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005 thì Điều ước quốc tế là văn bản thỏa thuận được ký kết hoặc gia nhập nhân danh nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với 1 hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, thẩm quyền đàm phán, ký kết, thực hiện Điều ước quốc tế nói chung cũng như Điều ước quốc tế về hải quan nói riêng phải được thực hiện theo những quy định hết sức chặt chẽ của Luật ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.

Vấn đề thứ ba, thời hạn cơ quan hải quan làm thủ tục hải quan ở Điều 22. Điểm b, Khoản 2 cần quy định rõ thời gian hoàn thành việc kiểm tra hàng hóa đối với hàng hóa thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành về chất lượng, vì trong Khoản 2, Điểm b chưa quy định rõ thời gian hoàn thành đối với loại hàng hóa chuyên ngành phải kiểm tra về mặt chất lượng.

Vấn đề thứ tư, về khai hải quan tại Điều 28, Khoản này quy định về người khai hải quan có thể nộp tờ khai chưa hoàn chỉnh để được thông quan theo Điều 42 và Điểu 49 của luật. Quy định như vậy là chưa rõ ràng vì có thể có nhiều cách  hiểu khác nhau về mức độ chưa hoàn chỉnh của tờ khai, khai sơ sài, khai còn thiếu nội dung những tiêu chí quan trọng, khai khá đầy đủ nhưng chỉ thiếu một vài tiêu chí phụ cũng đều được hiểu là tờ khai chưa hoàn chỉnh. Từ đó dẫn đến cách làm sẽ không thống nhất, tùy tiện.
Điều 28, Khoản 1 quy định: "Người khai hải quan phải khai đầy đủ, chính xác, rõ ràng các tiêu chí thông tin của tờ khai hải quan". Do vậy quy định nộp hồ sơ hải quan chưa hoàn chỉnh với Khoản 5 làm cho nội dung trong Điều 28 có sự mâu thuẫn, không thống nhất, đề nghị nghiên cứu để xây dựng điều này có tính chặt chẽ và hợp lý hơn.

Nội dung cuối cùng tôi xin phát biểu, đó là tôi đề nghị bổ sung điều khoản quy định kiểm tra, giám sát hải quan đối với các hàng hóa viện trợ từ tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cũng như từ Việt Nam ra nước ngoài vào Mục 3, Chương III của dự thảo luật này. Xin chân thành cảm ơn Quốc hội.

Các văn bản liên quan