Bài phát biểu của ông Nguyễn Đình Cung

Thứ Sáu 10:37 26-05-2006
Xin trân trọng giới thiệu bài phát biểu của ông Nguyễn Đình Cung tại Hội thảo lấy ý kiến về Luật Doanh nghiệp (thống nhất) do VCCI tổ chức ngày 4/3/2005 tại Hà Nội. Đây là bản được "đổ ra" từ băng ghi âm của Hội thảo này.



Kính thưa các anh chủ tịch đoàn, kính thưa tất cả các anh các chị. Tôi xin trình bày cái gọi là những bổ sung sửa đổi cơ bản cho Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất. Trình bày của tôi có 4 phần: [i]phần thứ nhất
điểm qua những công việc mà chúng tôi đã làm, phần thứ hai giới thiệu những thay đổi cơ bản so với luật hiện hành, phần tiếp theo tôi trình bày những vấn đề còn ý kiến khác nhau. Tôi tập trung nhiều hơn vào phần cuối cùng là những kiến nghị, những việc còn tiếp tục phải nghiên cứu để hoàn thiện Dự thảo cũng như để triển khai tổ chức thực hiện luật khi được thông qua. Chúng tôi đã làm rất nhiều việc, ở đây tôi liệt kê 10 việc, nhưng có những việc chưa nói ở đây như việc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ rà soát 800 văn bản, tìm kiếm những bất hợp lý của đồng thời những mâu thuẫn phát sinh giữa các văn bản đó. Chúng tôi hy vọng rằng dựa vào nghiên cứu đó, chúng tôi sẽ liệt kê được một cách cụ thể rằng những điều khoản nào ở luật nào sẽ cần phải bãi bỏ khi luật này có hiệu lực, những điều khoản nào cần bổ sung, sửa đổi để kiến nghị các cơ quan sửa đổi cho phù hợp. Thứ hai là, Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ cũng đang phối hợp với một số công ty tư vấn nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của luật. Đó cũng là những điểm mà theo tôi nghĩ là rất khác cho với trước đây. Ngoài ra như tôi đã liệt kê ở đây, chúng tôi đã làm rất nhiều việc kể cả nghiên cứu về lý luận, nghiên cứu về thực tiễn, kinh nghiệm nước ngoài. Chúng tôi nghĩ rằng công việc triển khai xây dựng luật lần này rất công phu, và tôi có cả một quá trình lâu lâu như thế này, tôi đánh giá hiểu biết kiến thức về cả độ sâu và độ rộng của chúng tôi về các loại hình doanh nghiệp hiện nay vượt xa hơn 5 năm trước đây khi chúng tôi nghiên cứu và xây dựng Luật Doanh nghiệp 1999.

Tôi sang phần thứ 2 nói về quy mô sửa đổi những thay đổi căn bản của các sửa đổi. Dự luật sửa đổi lần này có 161 điều cả mới và, trong đó có 43 điều mới hoàn toàn, có 79 điều hiện hành được bổ sung sửa đổi, và trong 79 điều đó có 45 điều được bổ sung, sửa đổi một cách đáng kể. Sửa đổi, bổ sung đáng kể là bổ sung tương đối lớn về nội dung, tức là độ dài, hoặc là thay đổi nho nhỏ -ít chữ nhưng cũng làm thay đổi căn bản nội dung của điều khoản đó. Những điểm thay đổi căn bản so với Luật Doanh nghiệp hiện hành là:

Thứ nhất, luật dự định áp dụng thống nhất cho 4 loại doanh nghiệp là công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Bốn loại hình doanh nghiệp này là 4 loại hình doanh nghiệp đặc trưng trong kinh tế thị trường và nó chiếm đại bộ phận doanh nghiệp trong bất kì nền kinh tế nào. Do đó, cho nên cả nền kinh tế Việt Nam cũng vậy. Bốn loại hình doanh nghiệp như vậy không phân biệt tính chất sở hữu có nghĩa là bất cứ nó có nguồn gốc nào, đã là công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân đều phải chịu sự điều chỉnh của luật này.

Hai là tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, giảm rào cản gia nhập thị trường, đặc biệt đối với đầu tư nước ngoài. Đặc biệt nếu những thay đổi được thông qua thì sẽ là bước ngoặt mở cửa thị trường trong nước ở Việt Nam.

Điểm thứ ba là những khống chế về sở hữu hiện nay như 30% vốn đối với đầu tư nước ngoài về cơ bản được xoá bỏ trừ những ngành nghề hạn chế kinh doanh, tức là sẽ có một danh mục ngành nghề hạn chế kinh doanh trong đó có lẽ vẫn còn áp dụng khống chế về mặt sở hữu như một trong những điều kiện để gia nhập thị trường.

Bốn là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có quyền tự chủ lựa chọn loại hình doanh nghiệp để kinh doanh không bị hạn chế một loại hình duy nhất là công ty TNHH như hiện nay.

Năm là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có quyền tự chủ cao hơn trong thực hiện kinh doanh, trong cơ cấu lại, mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Doanh nghiệp đa dự án sẽ thay thế doanh nghiệp đơn dự án. Hiện nay có thể nói doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp một dự án, một sản phẩm: sản xuất đồng hồ thì không được sản xuất máy tính, sản xuất tủ lạnh thì không được sản xuất điều hoà nhiệt độ. Sắp tới đây, khi sửa đổi được thông qua, loại hình doanh nghiệp đa dự án sẽ được sử dụng thay thế doanh nghiệp đơn dự án, đơn sản phẩm hiện nay.

Tiếp theo là khung quản trị sẽ được áp dụng như nhau đối với các loại hình doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bãi bỏ nguyên tắc nhất trí như hiện nay. Thực ra những quy định về quản trị hầu như không có mà có thì rất ít, mà có chỉ nhằm bảo vệ bên thiểu số bằng công cụ hành chính chứ không bằng những công cụ quản trị doanh nghiệp, tức là cơ quan hành chính thay cho chủ đầu tư Việt Nam bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam chứ không phải chính nhà đầu tư tự bảo vệ lợi ích của mình.

Tiếp theo là củng cố các quyền của cổ đông, bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số, tăng cường các quy định về quản lý vốn để hạn chế nguy cơ lạm dụng nguyên tắc trách nhiệm hữu hạn. Tăng thêm quy định về chế độ công khai minh bạch hóa đặc biệt đối với người quản lý, thiết lập một chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả kinh doanh của công ty, xác lập rõ hơn nhũng nhiệm vụ của người quản lý. Phải nói rằng những thuật ngữ này là mới trong luật Việt Nam “nghĩa vụ trung thành,” Chúng ta thường ít để ý về mặt nội dung của nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng mà hay dựa trên thủ tục đặc biệt là trong khu vực kinh tế nhà nước, tức là cứ đúng thủ tục là được. Còn đánh giá về mặt nội dung một người hành động như vậy có trung thành, trung thực hay không, có cẩn trọng không, đấy mới là quan trọng. Hy vọng xác định rõ hơn nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng của người quản lý nhất là thành viên của hội đồng quản trị và giám đốc công ty.

Cuối cùng là vai trò, vị trí, trách nhiệm của ban kiểm soát sẽ được nâng cao hơn và được quy định cụ thể hơn. Đấy là những thay đổi theo chúng tôi là cơ bản, quan trọng so với luật hiện hành.

Nhận xét chung của những thay đổi nói trên là Ban Soạn thảo chúng tôi đã tuân thủ đúng tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong Công văn 15/7/2004 của Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng. Thứ hai cũng là tuân thủ đúng chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư, trong cuộc họp đầu năm Bộ trưởng có chỉ đạo về những nội dung của Luật Doanh nghiệp thống nhất. Thứ ba là nội dung của Dự thảo về cơ bản phù hợp với các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp tốt nhất đã được thừa nhận. Nhìn tổng thể Dự thảo đang đi đúng hướng và có nội dung phù hợp với yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ 4 vừa rồi chúng tôi có tổ chức hội thảo với dự án STAR với sự bình luận của các luật sư nước ngoài và các luật sư Việt Nam đang làm việc cho nước ngoài. Theo cảm nhận của tôi và những người có mặt ở đó thì đánh giá của họ là tích cực và về cơ bản là đáp ứng được cam kết của chúng ta trong Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và yêu cầu họ đặt ra với mình trong việc gia nhập WTO liên quan đến lĩnh vực tổ chức doanh nghiệp.

Đến phần những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Đầu tiên là sự cần thiết của luật này, trong nhiều giới, giới doanh nghiệp nói chung có vẻ nhất trí với sự cần thiết. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng chưa cần có luật này. Tôi rất theo dõi, quan sát nhưng chưa nắm được tinh thần của nhóm cho rằng chưa cần thiết này, chưa cần thiết là tại sao. Anh Phạm Duy Nghĩa có nói rằng Ban soạn thảo cần phải đủ anh minh để cho ra đời bộ luật đồ sộ như thế này thì mới thúc đẩy phát triển, còn nếu chưa anh minh thì thôi. Tôi thì nghĩ rằng tất cả chúng ta, mỗi người bỏ một chút thông minh của mình ra thì cũng đủ anh minh để làm một việc tốt. Cái ý của anh Nghĩa thì tôi đồng ý ở chỗ này: đã làm luật thì phải làm một luật tốt thì mới đáng làm và đáng thông qua, còn không tốt thì thôi, chưa tốt mà đưa ra là hỏng, làm chúng ta mất một cơ hội thứ hai để rồi mất 5 năm nữa. Chúng tôi hy vọng rằng với nỗ lực tối đa của mình, giảm những thứ kém thông minh đi, mỗi người bỏ ra một chút anh minh thì chúng ta sẽ có một luật tốt.

Thứ hai là phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Như anh Ân nói, luật này áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, không phân biệt thành phần kinh tế và tính chất sở hữu. Nói ngược lại nếu như một doanh nghiệp không thuộc 4 loại hình doanh nghiệp này thì không thuộc đối tượng áp dụng của luật này. Mục tiêu đặt ra là phải đưa cái gọi là công ty nhà nước sang áp dụng theo luật này nhưng mà ý kiến khác nhau là thời điểm nào, điều kiện nào. Có người nói rằng nếu không đưa công ty nhà nước vào thì chưa tốt, mà chưa tốt thì chưa làm. Như vậy thì công ty nhà nước phải chuyển thành công ty TNHH thì mới thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này, đó là điều kiện. Hai là, khi nào nó chuyển, chuyển trong bao lâu. ý kiến thứ nhất là phải quy định trong luật này thời hạn 3 - 5 năm Chính phủ phải chuyển được thành công ty TNHH hoặc CTCP để hoạt động theo luật này. Nếu làm như vậy mới có sức ép buộc Chính phủ làm vì Quốc hội đã ghi trong luật rồi, chứ nếu không còn chần chừ như là kéo dài cổ phần hoá gần mười mấy năm nay. Có đưa doanh nghiệp nhà nước vào thì mới đúng là sân chơi chung, bình đẳng. ý kiến thứ hai cho rằng thời hạn để kết thúc chuyển đổi thì để nghị định của Chính phủ quy định với lý do quá trình chuyển đổi rất phức tạp, chưa được bàn và chuẩn bị kỹ, như vậy sẽ gặp rất nhiều thách thức khó vượt qua. Tôi sẽ trình bày những thách thức nào. Chính phủ quy định có điểm lợi là linh hoạt, không bị áp đặt thời gian để hoàn thành. Hiện nay hầu như chưa có nghiên cứu, thảo luận chính thức chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo đúng nghĩa của nó, chứ còn công ty nhà nước của ta không đúng là công ty TNHH với đúng nghĩa của nó. Do đó quy định thời hạn cụ thể trong luật khó có thể khả thi.

Theo tôi, tại sao công ty nhà nước cần phải chuyển đổi để thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này? Công ty nhà nước hiện nay chưa phải là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, vì công ty TNHH hoặc công ty cổ phần phải có 4 đặc điểm cơ bản là: (i) trách nhiệm hữu hạn của nhà đầu tư, (ii) pháp nhân độc lập, (iii) khả năng chuyển nhượng được của cổ phần hoặc phần vốn góp và (iv) quản lý tập trung và thống nhất. Công ty nhà nước của ta chỉ có 2 đặc điểm đầu tiên, mà ngay đặc điểm thứ nhất tôi cũng nghi ngờ bởi vì không trả được nợ, thuế thì khoanh nó lại, để đó, chế độ tài chính rất là “mềm”. Tại sao nói công ty nhà nước chưa được quản lý tập trung thống nhất, mấu chốt của nó nằm ở tổ chức và cơ chế thực hiện quyền của chủ sở hữu để ra quyết định. ở các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, việc quyết định các vấn đề quan trọng nhất thuộc về thẩm quyền của chủ sở hữu thì được thông qua Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên như quyết định về chiến lược đầu tư, quyết định về nhân sự. Đấy là quản lý tập trung và thống nhất. Còn công ty nhà nước của ta thì sao, cũng là những vấn đề quan trọng đó nhưng mỗi cơ quan Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, bộ ngành, Văn phòng Chính phủ quyết định. Thứ hai là cứng nhắc, rất chậm và không tương thích với nhau: quyết định về chiến lược thì không tương thích với quyết định về đầu tư, về cấp vốn, về nhân sự, các quyết định quan trọng không tương thích với nhau gì cả. Kết quả cuối cùng là có rất nhiều người có quyền can thiệp vào công viêc, hoạt động của công ty nhưng không có cơ quan, cá nhân nào cụ thể trực tiếp chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói chung và từng doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Khi thành công thì tôi thấy có rất nhiều người nhận là công của mình, nhưng khi thất bại thì khó tìm ai chịu trách nhiệm về công việc. Đấy là điểm quản lý không tập trung thống nhất theo nghĩa của quản trị doanh nghiệp. Muốn tháo gỡ cái đó thì theo chúng tôi phải bỏ hành chính chủ quản chứ không phải bỏ chủ quản, một nhà đầu tư không bao giờ bỏ quyền sở hữu của mình, mà thay thế bằng cơ chế chủ quản mới. Theo chúng tôi có ít nhất 3 việc phải làm để thiết lập chế độ chủ quản mới. Đó là (i) tách chức năng chủ quản hiện nay ra khỏi bộ máy thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, (ii) thay đổi cơ chế hành chính thực hiện chức năng chủ quản bằng cơ chế của người đầu tư kinh doanh (iii) tất cả các quyền của chủ sở hữu phải được thực hiện một cách tập trung, thống nhất.

Theo tôi, hiện nay chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước mới làm ở ngọn, chưa làm ở gốc cho nên khi chuyển sang công ty TNHH nó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Tôi sẽ trình bày 7 khó khăn thách thức khi chuyển công ty nhà nước sang công ty TNHH. Thách thức thứ nhất là phải thành lập bộ máy mới để quản lý tài sản nhà nước, như vậy là rất khó thuyết phục trước áp lực tinh giản biên chế trong hoàn cảnh Nhà nước vừa quá thừa, vừa quá thiếu, còn kém năng lực như hiện nay. Quá thừa ở chỗ nhiều cơ quan không còn phù hợp với cơ chế mới, quá thiếu ở chỗ nhiều cơ quan mới đáng lẽ phải xây dựng để thực hiện đúng với cơ chế thị trường thì mình lại chưa có. Cho nên bỏ cái cũ khó thành lập cái mới cũng không dễ. Hai là, nó đòi hỏi phải đổi mới tư duy và quan niệm về quyền quản lý nhà nước trong công ty. Nhà nước theo tôi là người đầu tư chứ không phải chủ sở hữu, một người đầu tư thấy cái gì có lợi hơn thì bán tài sản để đầu tư vào đó, hơn là chủ sở hữu quan niệm là bán đi thì mất. Sở hữu nhà nước trong công ty là sở hữu cổ phần, phần vốn góp chứ không phải là sở hữu doanh nghiệp, như vậy đơn giản rất nhiều. Nếu tôi thấy kinh doanh không hiệu quả ở chỗ này tôi có thể chuyển sang chỗ khác, với tư cách là nhà đầu tư tôi không vương vấn đến chuyện lao động thế nào. Ba là nó đòi hỏi thay đổi quan niệm, ý thức hệ truyền thống về vai trò của doanh nghiệp nhà nước, thay đổi thói quen truyền thống tư duy theo thành phần kinh tế. Nếu như chúng ta cứ tư duy như vậy thì không hình dung được nó không thuộc bên này cũng chẳng thuộc bên kia. Bốn là, nó có thể gặp sự phản đối, phê bình, có thể có động cơ tích cực cũng như tiêu cực của nhiều cấp, cơ quan, niều người vì không ít người còn hưởng lợi trong cơ chế hiện hành. Như Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói ngay lợi ích cục bộ còn ảnh hưởng làm chậm lại quá trình cổ phần hoá, việc chuyển đổi này còn rộng hơn cổ phần hoá. Năm là thách thức lối làm việc theo chế độ tập thể, chế độ này theo tôi quan sát là (i) chia quyền cho nhiều người những ít người chịu trách nhiệm, (ii) thiếu niềm tin vào cá nhân và không dám trao quyền cho một người, một cơ quan, (iii) đồng thời người được giao quyền cũng không dám hoặc sợ phải chịu trách nhiệm nên có thiên hướng san sẻ cho người khác để cùng chia sẻ rủi ro với nhau khi cần thiết, cách thức làm việc theo chế độ tập thể nó cản trở vì phải quản lý tập trung và thống nhất. Sáu là thiếu đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp, thiếu hụt này càng thiếu hụt thêm trong cơ chế quy hoạch cán bộ, cho nên nguy cơ trao quyền cho người không đủ năng lực là rất lớn. Trao quyền cho thành viên Hội đồng thành viên, hội đồng quản trị nhưng họ không đủ năng lực thì có nguy cơ không phát huy được vai trò của mình. Như thế nhiều người cảm thấy thừa. Đó là cái lý cho những ai muốn phản đối thay đổi và thực hiện một chế độ mới trong quản lý quyền sở hữu nhà nước.

Cuối cùng và không kém phần quan trọng là thị trường nước ta còn kém phát triển, kém cạnh tranh, giám sát của thị trường còn rất yếu, hệ thống tư pháp chưa phát triển, chưa đóng được vai trò cần thiết như chúng ta mong muốn trong sự vận hành của kinh tế thị trường. Sáu thách thức trên là thách thức mang tính nội bộ, thách thức thứ 7 là thách thức bên ngoài.
Tiếp theo là đăng kí kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng như thiết kế của Dự thảo luật là thực hiện chế độ đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thay vì cấp phép đầu tư như hiện hành. Nhưng còn ba khác biệt với doanh nghiệp trong nước là. Một là người đầu tư nước ngoài còn bị cấm kinh doanh trong một số ngành mà người trong nước không bị cấm, nghĩa là những ngành nghề mà chúng ta đàm phán được chế độ bảo lưu. Hai là, bị hạn chế có thể là cấp phép trước trong một số ngành nghề mà trong nước không bị hạn chế, có thể ngành nghề này chúng ta cam kết mở cửa từ từ, ví dụ có ngành nghề từ nay cho đến năm 2011 mới mở cửa hết. Đó chủ yếu là những ngành dịch vụ, khai thác tài nguyên thiên nhiên - những cái mà chúng ta có thể cho hoặc không cho. Thứ ba là đòi hỏi có tài sản 100 nghìn USD mà không yêu cầu đối với doanh nghiệp trong nước. Hai hạn chế đầu thì Luật Doanh nghiệp đã định về nguyên tắc, còn quy mô thực hiện của nó thế nào thì phụ thuộc chủ yếu vào Luật Đầu tư đang soạn thảo và một số luật chuyên ngành có liên quan. Về đòi hỏi phải có tài sản, thì ý kiến khác nhau rất nhiều. Nhóm cho rằng cần thiết có lập luận thế này, một là để bảo vệ cơ hội kinh doanh nhỏ cho những người đầu tư nhỏ trong nước, những hộ kinh doanh cá thể, hạn chế nhà kinh doanh nhỏ vào Việt Nam, hai là trong một bối cảnh tâm lý và cách thức vận hành của bộ máy Nhà nước ta như thế này khó có thể chấp nhận người nước ngoài đăng kí thành lập công ty với 1 USD vốn như ở một số nước mà phải có lượng vốn nhất định nào đó giống như một lòng tin cho bộ máy mình là anh đến đây để kinh doanh chứ không phải để lừa đảo, ba là người Việt Nam còn có vợ con ở đây, các anh phải có 100 nghìn USD để có gì chúng tôi còn lấy. Tương tự nói có 100 nghìn USD để giải quyết các tranh chấp trong thương mại, nếu không chúng tôi không biết ra nước ngoài để đòi.

Còn ý kiến cho rằng không cần thiết thì lập luận thế này: nếu anh duy trì 100 nghìn USD với người nước ngoài thì cũng phải buộc người trong nước như vậy, nếu không anh vi phạm nguyên tắc NT mà trong các hiệp định quốc tế bây giờ và sắp tới gia nhập WTO cũng thế. Hai là, anh nói như thế là bảo vệ nhà đầu tư nhỏ trong nước nhưng thực ra là hại họ bởi vì giả sử vốn cần 150 nghìn USD, người nước ngoài 100 nghìn, người trong nước 50 nghìn thôi thì sẽ thành chiếm thiểu số. Nếu liên doanh quy mô nhỏ mà anh bắt buộc thế này là hạn chế khả năng liên doanh của người đầu tư nhỏ với người đầu tư nước ngoài. Ba là, cái này đặt ra chẳng bảo vệ lợi ích của ai cả mà tăng thêm chi phí cho gia nhập thị trường, có nguy cơ làm tăng chi phí hành chính không cần thiết. Lập luận rất cần bàn là chúng ta có vi phạm nguyên tắc NT hay không.

Ý kiến tiếp theo là một số ngành nghề đòi hỏi phải hợp danh. Có 4 ngành nghề đòi hỏi: kiểm toán kế toán, thiết kế công trình, khám chữa bệnh và tư vấn pháp lý. Những người ủng hộ thì cho rằng nó phù hợp với thông lệ quốc tế, kinh doanh nghề này đòi hỏi trách nhiệm rất cao, họ không được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Hai là, một số văn bản dưới luật đã đòi hỏi kinh doanh kiểm toán... dưới hình thức hợp danh rồi. Ba là cải cách pháp lý ở một số nước cho phép lựa chọn hợp danh hay hữu hạn hay vô hạn, nhưng họ có bảo hiểm nghề nghiệp, ở ta chưa có nên đòi hỏi hợp danh.

Ý kiến cho rằng không cần thiết cũng nặng, dựa trên lập luận thế này: từ xưa đến giờ ở ta đã kinh doanh theo hình thức TNHH rồi mà không phát sinh vấn đề gì, như thế để TNHH thì tạo cơ hội đầu tư nhiều hơn. Thứ hai là ngay cả người nước ngoài cũng cho phép TNHH tại sao bắt người trong nước hợp danh. Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước thì thế nào, hiện nay có khoảng 400 doanh nghiệp nhà nước kinh doanh ngành nghề này, bắt hợp danh thì phải chuyển đổi thế nào, nếu không thì sao Nhà nước được hưởng hữu hạn còn tư nhân lại không. Tôi muốn đưa ra thảo luận một lần nữa vì Quốc hội đã đưa ra thảo luận tại kì họp thông qua Luật Doanh nghiệp 1999, có lần biêủ quyết đưa vào hợp danh, nhưng lần sau lại cho ra. Tôi cảm nhận Quốc hội rất nghiêm túc, nhưng đáng tiếc đến 2001 Pháp lệnh luật sư lại bắt mấy ông này hợp danh. Sau, Nghị định 105 về kiểm toán lại bắt hợp danh. Lần này chúng ta phải bàn một cách dứt khoát một lần nữa.

Về hạn chế góp vốn và thành lập công ty con. Có một quy định kiến nghị là tổng đầu tư vốn thành lập công ty con không quá 50% tổng số vốn chủ sở hữu tại thời điểm góp vốn. Ý kiến đồng tình cho rằng kinh nghiệm một số nước như thế, hơn nữa hạn chế rủi ro vĩ mô, tài chính doanh nghiệp hy vọng bền vững và lành mạnh. Nhưng bất lợi là từ góc độ doanh nghiệp hạn chế quy mô đầu tư bằng vốn vay, không được linh hoạt trong đầu tư, quy mô bị hạn chế trong vốn chủ sở hữu. Cơ chế thực hiện cũng khó.

Chúng tôi cũng chưa giải thích được một công ty có vốn năm tỷ thì làm thế nào thành lập được công ty con có vốn 40 tỷ. Mong muốn các anh các chị giải thích hộ.

Về thù lao, tiền lương cho thành viên hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và giám đốc. Trong Dự thảo luật có một quy định kiến nghị thế này: thành viên hội đồng thành viên, hội đồng quản trị hưởng thù lao theo ngày làm việc và mức thù lao hàng ngày, giám đốc thì hưởng lương xác định theo chỉ tiêu, kế hoạch kinh doanh hàng năm. Tổng mức thù lao, lương được quyết ngay từ đầu năm và ghi trong kế hoạch tài chính công ty. Nếu vượt thì được thưởng, nếu không thì bị giảm. Tổng mức thù lao, lương được hạch toán vào chi phí kinh doanh và phải được công khai hoá trong báo cáo tài chính năm của công ty. Hai đoạn dưới là mấu chốt của kiến nghị.

Có ý kiến cho rằng không nên quy định vì nó can thiệp sâu vào quản lí kinh doanh của doanh nghiệp. Quy định trên có lợi gì từ góc độ doanh nghiệp? Một là mức lương và thù lao hiện nay bị khống chế khi tính vào chi phí kinh doanh, được định bởi quy mô hơn là hiệu quả kinh doanh, quy chế thưởng không rõ ràng. Do đó, ưu điểm của kiến nghị là an toàn và linh hoạt hơn cho doanh nghiệp khi trả lương và thưởng cho cán bộ quản lý. Lương của họ phải là đòn bẩy, gắn liền với kết qủa kinh doanh, minh bạch hơn. Nhà nước cũng không thất thu thuế thông qua đánh thuế thu nhập cá nhân, công ty không bị gò bó trong trả lương, thưởng cho người quản lý, khuyến khích và thúc đẩy minh bạch quản trị công ty. Theo một báo cáo, tiền lương trung bình của người quản lý chỉ gấp 4 lần mức trung bình của công nhân, nhưng ở Mỹ thì phải cao gấp 300 lần. Có người kiến nghị ở ta tối thiểu phải gấp 30 lần. Muốn mở cơ chế cho doanh nghiệp trả lương cho người quản lý đúng với mức họ được hưởng. Đây là ý đồ của quy định này.

Về công ty hợp danh là pháp nhân hay không, trong thiết kế của dự án luật thì hợp danh là pháp nhân. Có người nói nếu là hợp danh là pháp nhân thì mâu thuẫn với Điều 94 Bộ luật Dân sự. Công ty hợp danh là pháp nhân thì thế giới đã có, một số nước ở Châu Âu thừa nhận. ở ta, về tâm lí thì người kinh doanh rất thích được gọi là pháp nhân nhưng thực ra nghĩa mà họ hiểu thông thường khác với nghĩa pháp lý một chút. Vì thế để hợp với tư duy người Việt thì nên thiết kế công ty hợp danh là pháp nhân.

Cuối cùng là vấn đề nhóm công ty. Chúng tôi có bổ sung chương VIa. Công ty mẹ, công ty và nhóm công ty. Nhóm công ty có nhiều loại nhưng trong dự thảo hiểu rằng là kết quả quá trình công ty này đầu tư vào công ty khác với mức chi phối phương hướng và công việc kinh doanh cụ thể của công ty đó. Nó là kết quả quá trình phát triển tự nhiên của một doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn, thành mẹ rồi sinh ra các con, các cháu, các doanh nghiệp thuộc thế hệ sau tạo thành nhóm doanh nghiệp có cùng nguồn gốc và một trung tâm sở hữu. Xét về địa vị pháp lý, từng doanh nghiệp trong nhóm đều là một pháp nhân, chủ thể pháp lý độc lập, có tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ riêng. Xét về tổ chức kinh doanh, mục tiêu hoạt động thì doanh nghiệp mẹ và các thế hệ con là một thực thể kinh tế thống nhất được chỉ huy tập trung, phối hợp hành động nhằm lợi ích tối đa cho cả nhóm. Mục đích của Luật Doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị công ty cho các nhà đầu tư bao gồm cả cổ đông và chủ nợ, hai là bảo đảm sự cân bằng giữa bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, ba là bảo vệ lợi ích của cổ đông bằng việc buộc các nhà quản lý phải hành động đem lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông, bốn là bảo vệ cổ đông thiểu số, ngăn chặn khả năng cổ đông đa số lợi dụng vị thế để tước đoạt lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số, cuối cùng là bảo vệ ở mức độ nhất định lợi ích của chủ nợ. Điểm lợi của nhóm công ty là nó trở thành hiện tượng phổ biến đang chi phối nền kinh tế thế giới. Thứ hai là nhóm công ty là một cơ cấu tổ chức để các công ty mở rộng quy mô, địa bàn, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh một cách hiệu quả đồng thời hạn chế và kiểm soát được rủi ro phát sinh trong quá trình đó giúp cho công ty phản ứng và đối phó nhanh với các biến động của thị trường. Nó có khả năng khắc phục nhanh, ít tốn kém các sai lầm trong kinh doanh và cuối cùng, nó tạo ra một cơ cấu hợp tác ổn định với chi phí giao dịch thấp.

Những ưu điểm này thể hiện rõ trong cơ cấu zeibatsu hay keizatsu hay cheabol nhưng nó cũng có điểm bất lợi. Đó là có thể là công cụ trốn thuế, thứ hai là nó có thể thành tập trung kinh tế, thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí đó để thực hiện các hành vi phi thị trường, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh. Sự cho vay và đầu tư chéo trong nội bộ nhóm chứa đựng nguy cơ khủng hoảng tài chính, nguy cơ gian lận gây tổn thất đến mức có thể sụp đổ cả nhóm công ty. Quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số của công ty mẹ và các thế hệ con có thể bị vi phạm, các tiêu cực có thể làm mất lòng tin của người đầu tư thiểu số. Cũng tương tự như vậy đối với lợi ích của chủ nợ.

Nhà đầu tư tận dụng những điểm lợi của nhóm công ty, nhóm công ty hình thành tự nhiên không cần pháp luật chi phối, pháp luật không cần chỉ ra cơ cấu công ty mẹ, con thế nào. Nhưng pháp luật cần điều chỉnh mặt tiêu cực của nó để hạn chế nguy cơ, rủi ro phát sinh trong nhóm công ty. Hành vi của nhóm công ty bị điều chỉnh bởi nhiêu luật: thuế thu nhập doanh nghiệp, kế toán, chống độc quyền và tất nhiên cả Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp ngăn ngừa những tiêu cực của nhóm công ty với quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số và chủ nợ. Điểm lợi của chương mới đưa vào là thừa nhận cơ cấu nhóm công ty, tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh đồng thời phân tán và hạn chế rủi ro. Công ty mẹ thực hiện quyền của mình ở công ty con như một cổ đông, thành viên, khác với tổng công ty nhà nước hiện nay quyền đó không căn bản dựa trên quyền như một cổ đông. Đây là điểm nhằm minh bạch hoá quyền giữa mẹ và con, khắc phục điểm yếu của nhóm công ty liên quan đến cổ đông thiểu số và chủ nơ, góp phần tăng niềm tin cho các nhà đầu tư, một yếu tố quan trọng trong thị trường vốn. Có ý kiến khác là không nên đưa nhóm công ty vào vì luật này quy định 4 loại hình doanh nghiệp, nhóm công ty không phải loại hình doanh nghiệp. Theo tôi ý kiến này đúng về logic hình thức, còn logic nội dung cần xem xét thêm.

Cuối cùng, có ý kiến cho phép cá nhân thành lập công ty TNHH một thành viên chứ không chỉ tổ chức như hiện nay. Hai là, nên quy định hộ kinh doanh cá thể với quy mô nhất định phải chuyển thành doanh nghiệp. Ba là, cần xác định cụ thể trong Luật điều khoản nào trái với Luật này phải bãi bỏ. Bốn là quy định hình thức, mức độ cụ thể đối với công chức làm trái quy định của Luật chứ không nên quy định chung chung.

Phần cuối cùng là những vấn đề cần nghiên cứu thêm để triển khai thực hiện Luật tốt hơn. Một là, liên quan đến đầu tư nước ngoài cần xác định rõ danh mục ngành nghề cấm kinh doanh, hai là danh mục ngành nghề xin phép trước khi đăng kí và cần quy định thêm điều kiện, thủ tục cấp giấy phép, cơ quan cấp phép cơ chế quản lý, hiệu lực của giấy phép. Chế độ quản lý đầu tư cũng cần nghiên cứu thêm để nâng cao hiệu lực của quản lý đầu tư và quản lý doanh nghiệp. Nghiên cứu chế độ thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước, chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần như tôi đã trình bày ở trên. Có một đề án xây dựng cơ quan đăng kí kinh doanh thống nhất với đủ năng lực và trang bị để triển khai thực hiện và giám sát thực hiện Luật tốt. Tôi cho rằng nếu Luật này có hiệu lực với những sửa đổi bổ sung trên, nếu cơ quan đăng kí kinh doanh không được tăng cường năng lực, bộ máy và thẩm quyền thì việc thực hiện Luật sẽ khó khăn vì khó có một cơ quan làm đầu mối thông tin giám sát doanh nghiệp. Xin cám ơn tất cả các anh các chị!

Các văn bản liên quan