Góp ý của Đại biểu Quốc hội Đồng Hữu Mạo – Thừa Thiên – Huế

Thứ Tư 13:50 26-05-2010

Kính thưa Quốc hội.

Trước hết tôi xin phát biểu ý kiến riêng của tôi về việc đưa nhà ở vào đối tượng chịu thuế trong luật này hay không. Tôi đồng ý như trong bản dự thảo là không nên đưa vào. Còn về lý lẽ thì tôi không phân tích thêm.

Tôi xin tham gia vào một số vấn đề như sau.

Thứ nhất là Thừa Thiên Huế của chúng tôi có một đặc điểm là phần phố, nhà, vườn thì có nhiều nhà vườn và nguyện vọng chung của nhân dân, của thành phố, của tỉnh thì muốn duy trì nhà vườn này để được đặc trưng của Thành phố Huế, chính vì vậy cách đây hơn 2 năm Hội đồng nhân dân tỉnh đã có nghị quyết ban hành một số chính sách của địa phương làm thế nào đó để giữ nhà vườn, nhà cổ đồng thời giữ diện tích vườn của Huế mà không bị chia nhỏ, ở địa phương thì có những chính sách ở địa phương rồi. Riêng về thuế nhà và thuế đất, thuế nhà thì chúng ta đang làm, nhưng thuế đất thì vẫn tiếp tục áp dụng đối với những nguồn này. Địa phương chúng tôi có làm việc với Trung ương, Bộ Tài chính thì đã có giải quyết tạm thời một số chính sách để giải quyết việc này nhưng bây giờ chúng ta làm lại, sửa lại Luật thuế nhà, đất này thì chúng tôi đề nghị nên có một chính sách để có thể tạo điều kiện giữ lại các nhà vườn ở Huế như nguyện vọng chung của nhân dân địa phương. Cụ thể tôi đề nghị như thế này trong Điều 3 về đối tượng không chịu thuế có 6 khoản đưa ra trong Điều 3 này, chúng tôi đề nghị thêm một khoản nữa. Đó là nhà vườn được cấp có thẩm quyền quyết định công nhận là "nhà vườn di sản", vấn đề này chúng tôi tha thiết đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu xem thêm để có thể giải quyết được việc như thế.

Vấn đề thứ hai, liên quan đến Mục a, Khoản 1, Điều 6, trong thực tế hiện nay chúng ta có khái niệm đất ở và đất thường. Luật đất đai hiện hành quy định Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định hạn mức đất ở và trên thực tế những gia đình có diện tích đất ở lớn hơn hạn mức mà được Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định công bố thì khi làm các thủ tục như cấp quyền sử dụng đất thì cũng chỉ cấp đất ở ở phạm vi hạn mức mà Ủy ban tỉnh quy định. Diện tích còn lại của một hộ gia đình lớn hơn hạn mức đấy thì gọi là đất vườn. Hai việc này dẫn đến hai nội dung khác nhau trong quá trình thực hiện điều hành. Đất vườn quy định giá rất thấp và đất ở thì giá đất cao, có nhiều cái chênh lệch nhau hàng chục lần, thậm chí đến hàng trăm lần. Khi chúng ta tiến hành đền bù giải tỏa thì cũng đền bù theo phương án này, nghĩa là vườn của hộ gia đình nào lớn thì mặc, tôi chỉ đề bù theo giá đất ở trong phạm vi hạn mức và phần còn lại là đất vườn thì nhà nước đền bù theo giá đất vườn. Mục a, Khoản 1, Điều 6 nói: "Diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế đang sử dụng" đất thực tế đang sử dụng ở đây là gì? Là đất trong hạn mức hay là toàn bộ diện tích đất ở kể cả ao, vườn. Nếu chúng ta nói là diện tích đất tính thuế ở đây chỉ có trong hạn mức thôi, nghĩa là phần vượt ra đấy là không tính thuế có phải không? Nếu đúng như vậy đề nghị Mục a, Khoản 1, Điều 6 nói lại rõ hơn để khi thi hành luật cho rõ ràng.

Hay toàn bộ diện tích đất vườn là diện tích tính thuế, nếu như vậy có mâu thuẫn với chính sách không? Khi chúng ta đền bù cho các hộ gia đình, cho người dân thì chúng ta chia ra đất vườn khác và đất ở lại khác, bây giờ tính thuế xem như tất cả mà tính thuế luôn với thuế suất quy định tại Điều 7, phần vượt ra nếu gấp 3 lần thì 0,03 có nghĩa là gấp 3 lần trong hạn mức, còn nếu phần vượt ra hơn 3 lần thì đến 0,1, như vậy lớn hơn rất nhiều lần, như thế có phù hợp không. Tôi đề nghị cần cân nhắc thêm làm rõ vấn đề này.

Vấn đề thứ ba, tại Khoản 2 của Điều 6, tôi thấy không biết là ghi thế này đúng không. Khoản 2 Điều 6 nói về hạn mức đất ở tính thuế được quy định như sau: Hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế là hạn mức giao đất ở mới theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành. Tôi nhớ không sai là việc quyết định hạn mức này sau khi có Luật đất đai năm 2004, sau đó các nghị định của Chính phủ quy định. Ở địa phương thì Ủy ban nhân dân tỉnh chuẩn bị, Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua, sau đó Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hạn mức đất ở đô thị và nông thôn. Bây giờ luật này áp dụng, chúng ta lấy nguyên hạn mức đó luôn, việc gì chúng ta phải nói có hạn mức đất ở mới nữa, có nghĩa bây giờ chúng ta làm thêm một lần nữa hay sao, tôi nghĩ có cần thiết không? Vì vậy tôi đề nghị Khoản 2 này không nên đưa vào, hoặc nếu đưa vào thì nói một câu là hạn mức tính thuế ở đây là hạn mức mà Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định theo Luật đất đai hiện hành. Hiện nay ở tất cả các địa phương chỗ nào cũng có rồi, theo tôi không ai không làm theo quy định của luật. Luật đất đai cũng nói rồi, các địa phương đều có hạn mức rồi. Xin hết.

Các văn bản liên quan