Góp ý của ông Phạm Ngọc Hữu – Nguyên Giám đốc ủy ban hải quan APEC

Thứ Tư 15:11 20-10-2010

Hà nội ngày 13/9/2010    

                         

Kính gửi Ban pháp chế VCCI

 

            Về nội dung chi phí bốc dỡ hàng xá (hàng rời) có tính vào trị giá hải quan (trị giá tính thuế) của hàng nhập khẩu hay không tôi xin trả lời như sau:

1. Theo điều 1 Hiệp định trị giá GATT 1994 thì : “ Trị giá Hải quan của hàng nhập khẩu là trị giá giao dịch, đó là giá thực tế đã trả hay sẽ phải trả cho hàng hóa được xuất khẩu cho nước nhập khẩu”. Trong hoạt động thương mại quốc tế hiện nay “giá thực tế đã trả hay sẽ phải trả” được các bên có liên quan hiểu là số tiền phải thanh toán cho việc mua hàng và các chi phí có liên quan phát sinh ngoài phạm vi lãnh thổ của nước nhập khẩu. Các chi phí này được tập hợp để xác định trị giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu. Các chi phí bốc xếp giao nhận hàng hóa thực tế phát sinh tại cảng nhận hàng thuộc lãnh thổ của nước nhập khẩu thì được hạch toán vào chi phí thu mua hàng hóa (TK.1562, chế độ kế toán Việt nam hiện hành) để làm cơ sở cho việc tính toán các sắc thuế nội địa có liên quan.

2. Theo mục 2 Điều 8 Hiệp định trị giá GATT 1994 thì “ Trong khuôn khổ luật pháp của mình, mỗi nước thành viên có thể tính thêm hoặc loại bỏ khỏi trị giá Hải quan toàn bộ hay từng phần các khoản chi phí sau:

- Chi phí vận chuyển hàng nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu

- Chi phí xếp dỡ và giao nhận có liên quan đến việc vận tải hàng nhập khẩu tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu

Như vậy các khoản chi phí vận chuyển, bốc xếp, giao nhận... nếu có tính vào trị giá hải quan thì chỉ tính các chi phí có liên quan đến việc đưa hàng tới cảng hoặc địa điểm nhập khẩu ( Nguyên văn TO the port or place of importation). Hiệp định này hoàn toàn không đề cập đến các chi phí bốc xếp giao nhận phát sinh tại  (AT) cảng hoặc điạ điểm nhập khẩu

3. Trên thực tế hầu hết hàng hóa nhập khẩu từ các nước vào Việt nam hiện nay đều được  nhập theo giá  đã có cước phí vận chuyển : CIF hoặc CF . Theo Incoterms 2000 thì đặc điểm chung nhất của giá CIF, CF là : Người bán phải thanh toán các khoản chi phí và cước phí vận chuyển hàng hóa cần thiết để vận chuyển hàng tới một cảng đích danh của nơi đến (Nguyên văn : The seller must pay the cost and freight necessary to bring the goods to the named port of destination ). Điều này cũng có nghĩa là các khoản chi phí vận chuyển bốc xếp để đưa hàng hóa tới nơi nhận hàng của người nhập khẩu đã được người xuất khẩu tính vào giá bán, giá mà người nhập khẩu “thực tế đã trả hay sẽ phải trả”

4. Theo thông lệ thương mại quốc tế, ngoại trừ các trường hợp cá biệt, còn nói chung với những hàng hóa vận chuyển theo giá CIF, CF trên bề mặt các vận đơn đường biển đều phải ghi CY/CY (Container Yard/ Container Yard: bãi container, bãi hàng). Thông tin này nhằm xác định trách nhiệm của người vận chuyển phải nhận hàng xuất khẩu và trả hàng nhập khẩu tại bãi hàng (không phải trên phương tiện vận chuyển) . Nói cách khác chi phí vận chuyển hàng hóa đã bao gồm chi phí dỡ hàng nhập khẩu xuống bãi hàng của cảng nhập. Nếu theo quy định của Bộ Tài chính hàng hóa nhập khẩu theo giá CIF, CF phải tính thêm chi phí bốc dỡ hàng tại cảng hoặc địa điểm nhập khẩu vào trị giá hải quan thì cũng có nghĩa là khoản mục chi phí này được tính 2 lần.

Như vậy việc tính chi phí bốc xếp giao nhận tại cảng hoặc địa điểm nhập khẩu là trái với quy định của Hiệp định trị giá GATT 1994 và không phù hợp với các tập quán thương mại quốc tế đương đại

                                                                                                                                                                        Phạm Phạm Ngọc Hữu

                                                Nguyên Giám đốc ủy ban hải quan APEC

Các văn bản liên quan