Góp ý của đại biểu Quốc hội Trần Việt Hưng – Hoà Bình

Thứ Sáu 10:25 06-11-2009


Kính thưa Quốc hội,

Tôi xin tham gia một số ý kiến đóng góp vào dự thảo Luật thuế tài nguyên như sau:
Thứ nhất, về những vấn đề chung, sự cần thiết ban hành, chúng tôi nhất trí với việc ban hành Luật thuế tài nguyên vì qua thảo luận ở tổ và một số ý kiến nói rằng chưa cần thiết ban hành vì cần phải điều chỉnh thuế đất đai và một số thuế khác cho phù hợp. Tôi nghĩ ta có thể nhận định tài nguyên của chúng ta hiện nay đã cạn kiệt, rất hiếm, do đó việc dùng thuế tài nguyên để điều chỉnh việc khai thác, sử dụng, xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết.

Về Điều 2 của dự thảo, chúng tôi đồng tình là nên bỏ Khoản 8, Điều 2 quy định các loại tài nguyên không thuộc quy định tại Khoản1, Khoản 7 điều này. Tôi đề nghị bỏ để đảm bảo tính minh bạch của pháp luật, tránh tình trạng vận dụng tùy tiện, cũng như tạo ổn định cho môi trường đầu tư.

Về giải thích từ ngữ tại Điều 4, hiện nay Điều 4 giải thích 2 nội dung, tôi đề nghị cần bổ sung thêm như hải sản, hải sản tự nhiên, khí thiên nhiên, khí than v.v.... tôi đề nghị giải thích vào cho đầy đủ, để hai nội dung này tôi nghĩ không phù hợp lắm, cũng giống như các đại biểu trước nói là có hai nội dung mà chúng ta đưa vào thành một điều thì nghe chừng không cần thiết lắm.

Về căn cứ tính thuế, tôi nhất trí với ý kiến của đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội là chúng ta cũng tính phần quặng, lấy căn cứ về sản lượng tài nguyên khai thác thực tế là một trong ba yếu tố cấu thành nên căn cứ tính thuế, nên lấy sản lượng quặng cũng như sản lượng chất sao cho chuẩn và công bằng cho đơn vị khai thác cũng như đảm bảo quản lý kiểm soát của đơn vị thuế và tránh thất thu thuế.

Thứ ba, về Điều 7, Điểm b, Khoản 2, dự thảo quy định trường hợp tài nguyên trong trường hợp chưa xác định giá bán thì giá tính thuế đơn vị tài nguyên được xác định căn cứ vào tài nguyên khai thác có chứa một hoặc nhiều chất khác nhau, giá tính thuế quy định theo giá bán của đơn vị của từng chất và hạm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác. Theo tôi quy định như vậy là rất chung chung và rất khó thức hiện, do đó đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ và chúng ta đưa ra những quy định sao cho cụ thể bởi vì đảm bảo tính minh bạch, cụ thể, dễ thực hiện trong quy định của pháp luật.

Về thuế suất ở Điều 8, tôi cũng đồng tình với ý kiến của một số đại biểu nói là hiện nay thuế suất sàn rất thấp và trần cao, tôi đề nghị đặc biệt đối với những nhóm tài nguyên không tái tạo lại được hay lâu tái tạo như dầu mỏ, khí thiên nhiên, khí than hay gỗ quý hiếm. Tôi đề nghị theo hướng đề nghị của Ban soạn thảo như đối với gỗ là giảm mức trần như Dự thảo nêu và nâng mức sàn đối với từng nhóm mà đảm bảo mức thu cho Nhà nước, làm như vậy tôi nghĩ rằng để đảm bảo tính hài hòa lợi ích của doanh nghiệp cũng như là nguồn thu Nhà nước. Đảm bảo sự khuyến khích qua công cụ thuế, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư những công nghệ hiện đại vào khai thác tài nguyên cũng như là chế biến, sử dụng như xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên.

Cụ thể liên quan đến vấn đề về khung thuế suất thì tôi cũng đề nghị là hiện nay khung thuế quá rộng do đó dễ bị lợi dụng nên đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu để chi nhỏ mức thuế suất trong từng loại tài nguyên cho dễ áp dụng. Liên quan đến quy định về khung thuế suất cụ thể, quy định cụ thể từng loại thuế suất thì tôi cũng nhất trí khung thuế suất là do Quốc hội quy định và cụ thể từng loại thuế suất thì tôi đề nghị là do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định. Bởi vì dẫu sao Ủy ban Thường vụ Quốc hội 1 tháng họp 1 lần thì cũng đảm bảo sự nhanh nhậy và linh hoạt trong việc quy định mức thuế suất cụ thể.

Liên quan đến nội dung kê khai thuế ở Điều 9 tôi đề nghị là không tách riêng, không quy định riêng việc kê khai nộp thuế đối với khí than, dầu thô, tách riêng ra nguồn tài nguyên thiên nhiên khác tôi đề nghị gộp vào là một. Bởi vì thực ra dầu thô hay khi than hay khí thiên nhiên cũng đều là tài nguyên thiên nhiên cả, nên đề nghị gộp vào là 1. Liên quan đến nội dung của Điều 10 thì tôi cũng nhất trí việc và đồng tình với các ý kiến trước đó là miễn thuế đối với các tổ chức cá nhân Việt Nam khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ. Phải làm cụ thể hơn vấn đề trong quy định tại Khoản 6, Điều 10 để tránh việc lợi dụng làm thất thu thuế, tôi đề nghị phải bổ sung thêm một phần miễn thuế trong Điều 10 đó là việc không thu thuế đất trồng rừng đã giao cho các tổ chức, cá nhân chăm sóc. Vì tôi nghĩ rằng đất rừng đều ở những vùng trọng yếu, biên giới, hải đảo và ở đó toàn bà con dân tộc, hiện nay chế độ chính sách đối với bà con dân tộc trong việc bồi dưỡng khoanh nuôi chăm sóc rất thấp nếu chúng ta đánh thuế vào nữa thì tôi nghĩ với nguồn lợi, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa đều là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và có thể phục vụ cho cả quốc phòng, an ninh nữa. Tôi đề nghị nên bỏ thuế sử dụng đất lâm nghiệp đối với đất rừng với bà con trồng rừng.Trên đây là một số ý kiến tôi tham gia vào dự thảo Luật thuế tài nguyên. Xin cảm ơn Quốc hội.

Các văn bản liên quan