VCCI tổng hợp ý kiến góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản

Thứ Sáu 14:18 10-04-2009

Ngày 08 tháng 04 năm 2009, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản (sau đây gọi tắt là Dự thảo Luật sửa đổi). VCCI xin chuyển tới Quý cơ quan bản tổng hợp các ý kiến góp ý của doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia trong Hội thảo này:

I.       LUẬT XÂY DỰNG

1.      Sửa đổi, bổ sung Điều 40 về điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng công trình

-         Điểm b khoản 1 Điều 40 Dự thảo Luật sửa đổi quy định: Dự án đầu tư xây dựng công trình được điều chỉnh khi “xuất hiện các yếu tố đem lại hiệu quả cao hơn cho dự án”. Điều này không rõ ràng: các yếu tố đem lại hiệu quả cao hơn cho ai (cho Nhà nước hay nhà đầu tư?)

-         Đề nghị bổ sung trường hợp dự án đầu tư xây dựng công trình được điều chỉnh “khi tổng mức đầu tư của dự án thay đổi”;

-         Đề nghị làm rõ việc giám sát, đánh giá đầu tư có áp dụng đối với dự án sử dụng vốn nhà nước dưới 50% tổng vốn đầu tư hoặc không sử dụng vốn nhà nước.

2.      Sửa đổi Điều 43 về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình

Chủ đầu tư xây dựng công trình chịu trách nhiệm toàn diện về việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc xây dựng đưa vào khai thác sử dụng. Đề nghị bổ sung thêm quy định: Các công trình đều phải có báo cáo kiểm toán trong vòng 06 tháng sau khi công trình đưa vào sử dụng và phải đảm bảo có đủ kế hoạch vốn trước khi triển khai dự án.

3.      Sửa đổi Điều 59 về thẩm định và phê duyệt thiết kế xây dựng công trình

-         Khoản 2 quy định, người có thẩm quyền quyết định đầu tư chịu trách nhiệm về việc thẩm định thiết kế cơ sở khi thẩm định dự án để quyết định đầu tư. Trong trường hợp cần thiết thì gửi hồ sơ lấy ý kiến các cơ quan liên quan về thiết kế cơ sở. Có ý kiến cho rằng, đối với các thủ tục hiện nay, các dự án sau khi thẩm định xong thiết kế, vẫn phải tiến hành cấp phép xây dựng do cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng xem xét và cho phép, vì vậy để tránh chồng chéo: thẩm định xong lại cấp phép nên điều chỉnh lại là: Chủ đầu tư phải tổ chức tự thẩm định thiết kế kỹ thuật để đảm bảo phù hợp với quy hoạch được duyệt và các quy phạm khác của Nhà nước. Đơn vị thiết kế và thẩm định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các ý kiến thẩm định cũng như các tính toán của mình. Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng khi cấp phép xây dựng chỉ cần phúc tra lại các ý kiến thẩm định của tư vấn của chủ đầu tư để căn cứ cấp phép;

-         Đề nghị quy định rõ những trường hợp cần thiết phải xin ý kiến của cơ quan nhà nước trước khi thẩm định thiết kế cơ sở;

-         Đề nghị quy định tiêu chí của đơn vị thẩm định thiết kế cơ sở? Theo quy định hiện hành “Thiết kế cơ sở phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về xây dựng tổ chức thẩm định khi phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình”. Việc Dự thảo Luật sửa đổi cho phép người có thẩm quyền quyết định đầu tư tự chịu trách nhiệm về việc thẩm định thiết kế cơ sở khi thẩm định dự án để quyết định đầu tư là một bước tiến quan trọng trong việc giảm bớt các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư và tạo điều kiện cho chủ đầu tư trong việc đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định thiết kế cơ sở cũng rất quan trọng do đó tiêu chí lựa chọn đơn vị thẩm định thiết kế cơ sở phải được quy định rõ tại Luật sửa đổi hoặc Nghị định hướng dẫn sau này.

II.   LUẬT ĐẦU TƯ

1.      Sửa đổi Điều 25 về góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập mua lại

Đề nghị không để Chính phủ quy định việc đầu tư theo hình thức sáp nhập, mua lại doanh nghiệp mà nên thực hiện việc này theo quy định của Luật Doanh nghiệp vì việc này quy định rất cụ thể tại Luật này. Việc sửa đổi Điều 25 không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật này vì luật này điều chỉnh việc sửa đổi các vấn đề liên quan đến đầu tư xây dựng.

2.      Sửa đổi Điều 29 về đầu tư có điều kiện

-         Đề nghị các cơ quan đăng ký kinh doanh công bố danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện để tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong việc tham khảo, áp dụng;

-         Đề nghị không bỏ quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng điều kiện như nhà đầu tư trong nước trong trường hợp các nhà đầu tư Việt Nam sở hữu từ 51% vốn điều lệ của doanh nghiệp trở lên, vì đây là một điều  khoản tiến bộ của Luật Đầu tư và được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao.

3.      Sửa đổi khoản 1, 2 Điều 38 về thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư

-         Đề nghị quy định rõ thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư vì trên thực tế thủ tục này rất phức tạp;

-         Đề nghị áp dụng điều khoản này đối với nhà đầu tư nước ngoài.

4.      Sửa đổi Điều 45 về thủ tục đầu tư đối với Dự án đầu tư trong nước

Dự thảo Luật quy định “Dự án đầu tư trong nước không phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư”.

-         Có ý kiến cho rằng, việc bãi bỏ Giấy chứng nhận đầu tư đối với Dự án đầu tư trong nước chỉ là đơn giản hóa thủ tục một cách hình thức, vì nếu bỏ Giấy chứng nhận đầu tư thì nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục về đất đai (xin giao đất, thuê đất) hay thủ tục vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, việc bãi bỏ Giấy chứng nhận đầu tư đối với Dự án đầu tư trong nước là hợp lý, góp phần tinh giản thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư[1]. Nếu thực tế nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục về đất đai, vay vốn ngân hàng, đề nghị rà soát các quy định của pháp luật về đất đai, tài chính để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư;

-         Dự thảo Luật sửa đổi quy định “Đối với những dự án từ 15 tỷ trở lên thì phải đăng ký đầu tư tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Đề nghị quy định rõ thủ tục đăng ký đầu tư và nhà đầu tư được cấp giấy gì?

-         Có ý kiến cho rằng, nên nâng mức dự án phải đăng ký đầu tư từ 15 tỷ đồng lên 30 tỷ đồng để giảm bớt thủ tục hành chính đối với các dự án quy mô nhỏ trong việc đăng ký đầu tư.

5.      Sửa đổi khoản 2 Điều 46 về hồ sơ đăng ký đầu tư

Cần làm rõ tài liệu nào thể hiện:

i)                   Mục tiêu, quy mô và địa điểm thực hiện dự án đầu tư;

ii)                Vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án;

iii)              Nhu cầu sử dụng đất và cam kết về bảo vệ môi trường

iv)               Kiến nghị ưu đãi đầu tư (đơn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư)?

v)                 Tài liệu nào chứng minh năng lực tài chính (báo cáo tài chính, thư ngân nhàng hay bảo lãnh công ty mẹ?)

6.      Sửa đổi Điều 50 Luật Đầu tư

-         Khoản 2 Điều 50 đề nghị giữ nguyên quy định cũ “Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Nếu tách bạch hai loại giấy tờ này sẽ tạo ra thủ tục hành chính cho nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư tại Việt nam. Mặt khác, quy định nhà đầu tư nước ngoài phải hoàn tất thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) trước tại cơ quan quản lý về đầu tư sau đó mới tiếp tục hoàn tất thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKKD) tại cơ quan quản lý về đăng ký thì sẽ không phù hợp vì doanh nghiệp nhà đầu tư nước ngoài dự kiến thành lập tại Việt Nam khi chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cũng chưa đủ tư cách và điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đầu tư;

-         Có ý kiến lại cho rằng, việc tách hai loại giấy này là hợp lý vì bản chất pháp lý của hai giấy này là khác nhau. GCNĐKKD xác lập địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh, tức là doanh nghiệp, trong khi GCNĐT chỉ xác lập tính hợp pháp của một hành vi kinh doanh của doanh nghiệp. GCNĐT gắn với một dự án, còn GCNĐKKD gắn với một doanh nghiệp, mà doanh nghiệp có thể có nhiều dự án. Dự thảo tách hai GCNĐKKD và GCNĐT bằng cách bãi bỏ Điều 20 Luật Doanh nghiệp và Điều 50 Luật Đầu tư thì dẫn đến hệ quả như sau: Nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam sẽ phải thực hiện ĐKKD để được được cấp GCNĐKKD độc lập với việc cấp GCNĐT cho dự án đầu tư. Như vậy, GCNĐT sẽ được cấp cho nhà đầu tư hay doanh nghiệp do nhà đầu tư thành lập? Vì vậy, dự thảo cần phải nói rõ được cấp cho doanh nghiệp do nhà đầu tư thành lập chứ không phải cấp cho nhà đầu tư để tránh tình trạng hiểu lầm. Mặt khác, nếu GCNĐT được cấp cho doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập thì là dự án đó lại là một dự án đầu tư trong nước vì doanh nghiệp được cấp GCNĐT là một doanh nghiệp Việt Nam (Khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp quy định: “Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh”). Vậy, phân biệt nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn ý nghĩa. Mà cần phải xây dựng tư duy không phân biệt đối xử khi chúng ta đã gia nhập WTO vì bất cứ nguồn vốn đầu tư nào kể cả trong và ngoài nước đều tạo ra ba hệ quả: tạo ra sản phẩm, tạo ra thuế và tạo ra việc làm. Việc tách biệt GCNĐKKD và GCNĐT sẽ làm rõ hai khái niệm: nhà đầu tư và chủ đầu tư. Chủ đầu tư luôn luôn là người được cấp GCNĐT và triển khai dự án, chịu trách nhiệm pháp lý về dự án. Còn nhà đầu tư nếu trực tiếp thực hiện dự án mà không thành lập doanh nghiệp mới thì là chủ đầu tư, còn nếu thành lập doanh nghiệp mới để thực hiện dự án thì không phải là chủ đầu tư. Nếu nhà đầu tư không đồng nhất với chủ đầu tư thì nhà đầu tư có thể chuyển nhượng phần vốn đã đầu tư của mình mà không phải thay đổi GCNĐT.

-         Đề nghị bỏ Khoản 3 Điều 50[2] nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính cho các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam khi có dự án đầu tư mới tại Việt nam. Như đã góp ý ở trên, khi tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam có dự án đầu tư mới phải tiến hành sửa đổi Giấy chứng nhận đầu tư đã được cấp cho phù hợp với yêu cầu triển khai dự án đầu tư mới;

7.      Bổ sung quy định về giải thích từ ngữ đối với thuật ngữ “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”. Tỷ lệ cổ phần của nước ngoài nên là 30% hay 49%? Tỷ lệ sẽ được tính như thế nào trong trường hợp một liên doanh góp vốn thành lập một liên doanh mới với một nhà đầu tư nước ngoài khác? Doanh nghiệp trong đó bên nước ngoài chiếm ít hơn 30% sẽ không coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nếu nhà đầu tư nước ngoài tăng phần vốn góp trên 30% vốn điều lệ, thủ tục áp dụng thế nào? Thế nào được coi là doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài?

III.            LUẬT ĐẤU THẦU

1.      Đề nghị hướng sửa đổi của Luật Đấu thầu

-         Các dự án có nguồn vốn của Nhà nước đề nghị cho chỉ định thầu hoặc tổ chức đấu thầu trong nước, nếu các doanh nghiệp nước ngoài tham gia thầu phải liên danh hoặc làm thầu phụ, doanh nghiệp trong nước là người đứng đầu liên doanh thầu;

-         Để thiết bị đấu thầu cho dự án không bị lạc hậu, chất lượng đảm bảo, ngoài các đặc tính kỹ thuật của các thiết bị, trong luật đấu thầu và hồ sơ mời thầu cần đưa hệ số tính điểm xuất xứ thiết bị vào xét thầu;

-         Nên đưa các quy định và yêu cầu tối thiểu về cấp độ tiên tiến về công nghệ, thiết bị để tránh nhập thiết bị, công nghệ lạc hậu.

2.      Sửa đổi khoản 39 Điều 4 về thẩm định đấu thầu

Đề nghị bổ sung: Chỉ thẩm định kết quả đấu thầu đối với các công trình có vấn đề không bình thường (có khiếu nại, hoặc có dấu hiệu dàn xếp thông thầu…) vì chủ đầu tư khi tổ chức đấu thầu hoặc phải dùng tư vấn xét thầu hoặc phải dùng tổ chấm thầu của chính mình. Nếu bất kỳ cuộc thầu nào cũng tổ chức thẩm định thì sẽ mất thời gian đồng thời phải tổ chức ra một bộ phận chuyên làm việc này. Nhưng nếu phải thẩm định kết quả đấu thầu ở dự án nào đó thì đề nghị nên có sự tham gia của đại diện hiệp hội nhà thầu để có ý kiến khách quan trong việc đánh giá.

3.      Sửa đổi khái niệm “vốn nhà nước”

Đề nghị sửa đổi khái niệm “vốn nhà nước” trong Luật vì theo luật đấu thầu hiện hành vốn nhà nước được xác định bao gồm “vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý”. Trong trường hợp các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn vay vốn từ các ngân hàng quốc doanh hoặc ngân hàng do Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì nguồn vốn vay này có được coi là vốn nhà nước không (các vốn khác do nhà nước quản lý)? Nếu được coi là vốn nhà nước thì dự án của các doanh nghiệp này có vốn vay (được coi là vốn nhà nước) phải thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Như vậy, doanh nghiệp cổ phần, trách nhiệm hữu hạn sẽ không chủ động được trong việc triển khai dự án.

4.      Sửa đổi khoản 1 và khoản 3 Điều 20 chỉ định thầu

-         Khoản 1, Điều 20 đề nghị bổ sung 2 trường hợp: a) Gói thầu mua sắm máy móc, dây chuyền thiết bị mà công nghệ sử dụng chỉ có một đơn vị có thể cung cấp; b) Gói thầu xây dựng hoặc mua sắm máy móc thiết bị mà việc chỉ định thầu hiệu quả hơn việc tổ chức đấu thầu;

-         Điểm b khoản 1, Điều 20 đề nghị sửa “Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ trong và ngoài nước”;

-         Điểm đ khoản 1 đề nghị sửa thành “các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;

-         Khoản 3 Điều 20 đề nghị bỏ nội dung “Đối với các gói thầu quy định tại điểm đ phải đảm bảo áp dụng hình thức chỉ định thầu là hiệu quả hơn đấu thầu”. Quy định như vậy là cứng nhắc và không đáp ứng yêu cầu thực tế;

-         Đề nghị bổ sung vào chỉ định thầu: “Đối với các dự án nhỏ, lẻ không vượt quá 5 tỷ đồng (không dùng cho dự án có nhiều gói thầu nhỏ để hạn chế việc chủ đầu tư chia nhỏ dự án thành nhiều gói thầu nhỏ). Ngoài ra các gói thầu chỉ định thầu đều phải giảm giá so với dự toán được thẩm định từ 1%– 3%.

5.      Sửa đổi khoản 3 và khoản 4 Điều 46

Dự thảo Luật quy định “Giá hợp đồng không được vượt giá trúng thầu”, đề nghị bổ sung “trong trường hợp ký hợp đồng trọn gói”. Trường hợp không phải hợp đồng trọn gói đơn giá để ký hợp đồng không được vượt đơn giá trong hồ sơ trúng thầu.

6.      Sửa đổi Điều 57 về điều chỉnh hợp đồng

-         Đề nghị Dự thảo luật sửa đổi quy định “Việc điều chỉnh giá hợp đồng” được thực hiện trong các trường hợp: a) Nhà nước thay đổi các chính sách thuế; b) Biến động giá có ảnh hưởng trực tiêp đến giá hợp đồng; c) Hợp đồng có thời gian thực hiện trên 18 tháng;

-         Thực hiện điều chỉnh gía hợp đồng theo công thức của WB và ADB cho mọi loại hợp đồng xây lắp: Pc = Ac + Bc (Imc/Ioc). Trong đó: Pc là hệ số điều chỉnh cho phần giá hợp đồng phải thanh toán; Ac thể hiện phần không điều chỉnh; Bc là phần điều chỉnh tương ứng của giá hợp đồng phải thanh toán; Imc là chỉ số giá hiện có tại cuối tháng lập đơn xin thanh toán; Ioc là chỉ số giá hiện có 28 ngày trước khi mở thầu (các chỉ số giá do Tổng cục thống kê cấp);

-         Đề nghị, bỏ ý: “Giá hợp đồng sau điều chỉnh không làm tăng tổng mức đầu tư đã duyệt”, vì: Tổng mức đầu tư được lập trước khi đấu thầu một thời gian dài, sau đấu thầu mấy tháng mới kí hợp đồng xây lắp. Vì thế điều chỉnh hợp đồng tăng lên do biến động giá tăng lên thì đương nhiên là vượt tổng mức đầu tư. Việc duyệt lại tổng mức đầu tư đã làm chậm tiến độ thi công và cũng rất phiền phức cho việc duyệt lại này. Mặt khác, quy định “giá hợp đồng sau điều chỉnh không được làm tăng tổng mức đầu tư đã duyệt” mâu thuẫn với khoản 2 Điều 40 sửa đổi của Luật Xây dựng, trong đó, cho phép người có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh dự án làm tăng tổng mức đầu tư đã duyệt, cụ thể là “khi điều chỉnh dự án làm thay đổi địa điểm, quy mô, mục tiêu dự án hoặc vượt tổng mức đầu tư đã được phê duyệt thì chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư quyết định”. Đề nghị Dự thảo xem xét để đảm bảo tính thống nhất;

-         Điểm a khoản 1 quy định, việc điều chỉnh căn cứ theo khối lượng công việc hoặc thời gian thực tế nhà thầu đã thực hiện nhiều hơn hoặc ít hơn khối lượng công việc nêu trong hợp đồng, đề nghị quy định thêm “do thay đổi thiết kế hoặc các yêu cầu khác của Chủ đầu tư ”;

7.      Sửa đổi khoản 5 Điều 60

Đề nghị sửa như sau: “Hủy, đình chỉ cuộc thầu khi phát hiện hoặc căn cứ đề nghị của các cơ quan chức năng liên quan về hành vi vi phạm pháp luật của chủ đầu tư, bên mời thầu hoặc nhà thầu dẫn đến làm thiệt hại lợi ích của nhà nước và các chủ thể có liên quan”.  

8.      Điểm c, Điều 75 đề nghị làm rõ: “Bị cảnh cáo liên tục 3 lần khi vi phạm các hành vi bị cảnh cảnh cáo theo quy định tại khoản này”. Cần xác định rõ liên tục là như thế nào vào liên tục trong thời hạn bao lâu”.

IV.             LUẬT ĐẤT ĐAI

1.      Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 35

Đề nghị không sửa điểm a khoản 2 Điều 35 mà để nghị định của Chính phủ điều tiết lại tiền thuê đất trả một lần đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Trường hợp cần thiết thì chúng ta phải sửa theo toàn bộ hệ thống bằng cách công nhận 3 hình thức:

-         Thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm đối với các dự án sử dụng đất có thời hạn: áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (chỉ có quyền giao dịch đối với tài sản găn liền với đất);

-         Thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với các dự án sử dụng đất có thời hạn: áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (có quyền giao dịch đối với cả quyền sử dụng đất và tài sản găn liền với đất);

-         Giao đất trả tiền sử dụng đất đối với các dự án sử dụng đất không thời hạn: áp dụng đầy đủ cho nhà đầu tư trong nước và áp dụng có thời hạn đối với nhà đầu tư nước ngoài, khi cần gia hạn thì nhà đầu tư nước ngoài được phép gia hạn mà không phải thực hiện thêm bất kỳ loại nghĩa vụ tài chính nào.

2.      Bổ sung Điều 44

Về nguyên tắc, sửa điều này là phù hợp nhằm giảm nhanh thời gian thực hiện các thủ tục hành chính về thu hồi đất nhưng kỹ thuật sửa là không chặt chẽ về hành văn luật. Đề nghị sửa đổi lại toàn bộ Điều 44 như sau:

"Điều 44 Thẩm quyền thu hồi đất

1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với các trường hợp sau:

a) Đất do tổ chức, cơ sở tôn giáo đang sử dụng;

b) Đất do người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư;

c) Thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư mà trong diện tích đất thu hồi có người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.

3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được uỷ quyền."

3.      Về việc thống nhất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất

Các đại biểu cho rằng việc thống nhất hai loại giấy này làm một là cần thiết, cũng phù hợp với Nghị quyết số 07/2007/QH12 ngày 12/11/2007 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 thông qua kỳ họp tháng 11/2007 của Quốc hội khóa XII[3]. Đề nghị Dự thảo xem xét để cho điều khoản về vấn đề này vào.

Trên đây là những ý kiến của các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia góp ý  cho Dự thảo Luật sửa đổi trong Hội thảo, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng gửi tới Quý cơ quan. Rất mong cơ quan soạn thảo lưu ý xem xét, cân nhắc để hoàn thiện Dự thảo.



[1] Thực tế, các dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước không gắn liền với việc xin giao đất, thuê đất gặp rất nhiều khó khăn, phiền hà khi phải tiến hành thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

[2] Trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam khi có dự án đầu tư mới thì thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Giấy chứng nhận đầu tư, nếu nội dung đầu tư dẫn đến thay đổi về vốn điều lệ, ngành, nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh thì tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện hoạt động đầu tư theo Giấy chứng nhận đầu tư đã được cấp

[3] "Rà soát, sửa đổi những vướng mắc trong Luật đất đai, Luật nhà ở và các luật có liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất...Thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên cơ sở Luật đất đai, giao cho một cơ quan làm đầu mối thực hiện; đơn giản hoá hồ sơ, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; phấn đấu đến năm 2010 cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tất cả các loại đất trên phạm vi toàn quốc.

Các văn bản liên quan