Giải trình về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ

Thứ Sáu 14:09 05-06-2009

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BAN SOẠN THẢO
       _________

GIẢI TRÌNH VỀ VIỆC

SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

********************

         Tổng số Điều sửa đổi, bổ sung: 35 Điều, trong đó:     

                       Phần I: Những quy định chung:                        4 Điều      (Điều  3, 7, 8, 11)

Phần II: Quyền tác giả, quyền liên quan:                   10 Điều    (Điều 14, 25, 26, 27, 30, 33, 34, 42, 50, 51)

Phần III: Quyền sở hữu công nghiệp:                       5 Điều            (Điều  87, 90, 119, 134, 154)

Phần IV: Quyền đối với giống cây trồng:           10 Điều    (Điều 157, 160, 163, 165, 178, 186, 187, 188, 190, 194)

Phần V: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ:                 5 Điều      (Điều 201, 211, 214, 216, 218)

Phần VI: Điều khoản thi hành:                            1 Điều      (Điều 220)

Ghi chú: - Trong 35 Điều, có 3 Điều thay đổi cụm từ “Bộ Văn hoá – Thông tin” thành “Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (Điều 11, 50, 51). Còn lại 32 Điều có sửa đổi, bổ sung tại một số khoản, điểm.

- Tại bản giải trình này, các chữ có gạch đè là phần bị loại bỏ, các chữ đậm là phần bổ sung.

 

STT

Điều, khoản hiện hành

Điều, khoản sửa đổi, bổ sung

Lý do sửa đổi, bổ sung

1

Điều 3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.

Điều 3. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng, là quyền đối với vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.

a. Vật liệu nhân giống là cây hoàn chỉnh hoặc các bộ phận của cây có khả năng phát triển thành một cây hoàn chỉnh như: hạt giống, bào tử, thân, rễ, cây con, cành ghép, mắt ghép, cây ghép, sợi nấm, củ, quả, chồi, hoa, mô, tế bào hoặc các bộ phận khác của cây;

b. Vật liệu thu hoạch là cây hoàn chỉnh hoặc bất kỳ bộ phận nào của cây thu được từ việc gieo trồng vật liệu nhân giống.

 

Đề xuất sửa đổi, bổ sung để đối tượng quyền bao gồm cả vật liệu thu hoạch, phù hợp với Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV).

Bổ sung điểm a, b khoản 3 Điều 3 để quy định rõ và đầy đủ nội hàm của vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.

Đề xuất này còn nhằm phù hợp với khoản 2 Điều 750 Bộ luật Dân sự; các khoản 1, 2 của Điều này và khoản 2 Điều 184.

 

2

Điều 7. Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ

Điều 7. Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ

4 Sáng chế thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật gọi là sáng chế mật.

Chính phủ quy định cụ thể việc bảo hộ sáng chế mật.

 

Cần bổ sung quy định về bảo hộ sáng chế mật, một mặt bảo vệ bí mật quốc phòng, bí mật quốc gia (sáng chế mật) của Việt Nam, mặt khác để bảo đảm cơ sở  pháp lý cần thiết để hợp tác với nước ngoài về lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm này.

Trong quá trình đàm phán để ký kết Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Liên bang Nga về bảo hộ tương hỗ các quyền sở hữu trí tuệ đối với kết quả hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân sự (từ 2006 đến nay), Việt Nam mới thấy được sự thiếu hụt quy định về bảo hộ sáng chế mật trong pháp luật của ta.

Quy định về bảo hộ sáng chế mật có trong Luật sáng chế của nhiều nước (ví dụ Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Trung quốc, Bungari, Đan mạch), với  những nội dung chủ yếu sau đây:

- Giữ bí mật sáng chế: Không công bố đơn và quyết định cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế mật;

- Hạn chế quyền của chủ sáng chế mật: Người sử dụng sáng chế  mật do không biết về sự tồn tại của sáng chế không bị coi là xâm phạm quyền, nhưng phải trả cho chủ sáng chế mật một khoản tiền tương ứng với giá chuyển giao quyền sử dụng; Sáng chế mật có thể bị Nhà nước trưng dụng theo quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế;

- Kiểm soát sáng chế mật trước khi đăng ký ra nước ngoài: Mọi sáng chế đều phải được nộp đơn đăng ký tại Việt Nam trước và chỉ được đăng ký ra nước ngoài sau khi hết thời hạn kiểm soát sáng chế mật, nếu không sẽ bị tước quyền được bảo hộ tại Việt Nam;

- Chỉ định các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền kiểm soát sáng chế mật và cấp văn bằng bảo hộ sáng chế mật: Cơ quan sáng chế, các Bộ Quốc phòng, Công an...

Những quy định riêng đối với sáng chế mật như nêu trên cần được ban hành phù hợp với quy định về bảo vệ bí mật nhà nước. Hơn nữa, nhiều quy định, đặc biệt là về trình tự, thủ tục xác định và bảo vệ bí mật của các cơ quan có thẩm quyền, việc trưng dụng (dưới hình thức bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng) sáng chế mật cũng là quy định bí mật, cần được quy định trong các văn bản không công bố của các ngành hữu quan. Các quy định như vậy  lần đầu tiên được ban hành nên cần giao cho Chính phủ quy định trong Nghị định và sẽ đưa vào Luật sau một thời gian thi hành và được kiểm nghiệm qua thực tiễn.

Phương hướng xây dựng chế định này được thể hiện trong Dự thảo sơ bộ các quy định thuộc Nghị định Chính phủ sau đây:

“Điều 1. Hình thức bảo hộ, nội dung và giới hạn quyền đối với sáng chế mật

1. Sáng chế mật của các tổ chức, cá nhân Việt Nam chỉ có thể được cấp Bằng độc quyền sáng chế mật, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích mật.

2. Đơn đăng ký sáng chế mật, Bằng độc quyền sáng chế mật, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích mật không được công bố và phải được bảo mật theo quy định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

3. Người sử dụng sáng chế  mật mà không biết về việc sáng chế đang được bảo hộ không bị coi là xâm phạm quyền, nhưng phải trả cho chủ sáng chế mật một khoản tiền tương ứng với giá chuyển giao quyền sử dụng.

4. Việc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế mật cho bất kỳ tổ chức cá nhân nào, việc chuyển giao quyền nộp đơn, quyền sở hữu sáng chế mật cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Điều 2. Xác định sáng chế mật, xác lập quyền và chuyển giao quyền đối với sáng chế mật

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng và Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về xác định sáng chế mật; bảo vệ sáng chế mật; thủ tục xác lập, chuyển giao quyền đối với sáng chế mật sáng chế mật phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ và pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

Điều 3. Đăng ký sáng chế mật ra nước ngoài

1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam không được đăng ký sáng chế mật ra nước ngoài.

2. Tổ chức, cá nhân Việt Nam không được cấp Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích [thông thường] đối với sáng chế nếu đã nộp đơn đăng ký sáng chế ra nước ngoài  trong các trường hợp sau đây:

a) Chưa nộp  đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam; hoặc

b) Chưa kết thúc thời hạn 6 tháng kể từ ngày nộp đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam; hoặc

c) Khi đã có thông báo của cơ quan có thẩm quyền rằng sáng chế được xác định là sáng chế mật theo quy định về bí mật nhà nước.”

3

Điều 8. Chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ

 

Điều 8. Chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ

5. Đẩy mạnh đầu tư và huy động các nguồn lực của xã hội nhằm nâng cao năng lực hệ thống bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng yêu câu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

 

Bổ sung chính sách đẩy mạnh đầu tư và huy động các nguồn lực của xã hội nhằm nâng cao năng lực hệ thống bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của nước ta mới được hình thành và còn non kém. Xét về phương diện tổ chức và năng lực hệ thống (kể cả về nhân lực, nguồn lực tài chính, thông tin và cơ sở vật chất kỹ thuật) bộ máy quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ chỉ gần ngang bằng với các nước có trình độ phát triển trung bình trong khu vực và thua xa nhiều quốc gia trên thế giới; riêng bộ máy thực thi quyền sở hữu trí tuệ thì có thể nói là không thể sánh với các hệ thống đáng kể khác. Trình độ dân trí về sở hữu trí tuệ còn thấp, hệ thống đại diện và tư vấn sở hữu trí tuệ chưa mạnh và đồng đều. Vì vậy, rất cần có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cũng như huy động các nguồn lực của xã hội để kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ quốc gia, từ đó, mới có thể phát huy được vai trò của hệ thống này trong thúc đẩy hoạt động sáng tạo và đổi mới, phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội của đất nước.

4

Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;

Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả

k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;

Đề xuất bổ sung cụm từ “kiến trúc” là phù hợp với Điều 2 Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật: “... địa đồ, đồ án, phác họa và các tác phẩm thể hiện không gian ba chiều liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học”.

Đề xuất này cũng phù hợp với quy định tại Điều 747 Bộ luật Dân sự 1995: “...Các bức hoạ đồ, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học”

5

Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải  xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Chính phủ quy định cụ thể về các hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và lưu hành đĩa quang; sử dụng đĩa quang trắng để định hình, sao chép.

 

3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này Các quy định tại điểm a, đ khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

Phù hợp với nguyên tắc “phép thử 3 bước” do WIPO đề xuất để các quốc gia áp dụng khi đưa ra quy định về giới hạn quyền tác giả, quyền liên quan.

IFPI đã có Luật mẫu về quản lý đĩa quang. Việt Nam cần tham khảo để có quy định phù hợp.

Các nước thành viên APEC đã cam kết ban hành văn bản quy định về quản lý đĩa quang. Vì vậy, Chính phủ đã giao Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chuẩn bị Nghị định về quản lý đĩa quang nhưng hiện chưa có căn cứ pháp lý.

Đây là vấn đề mới và phức tạp, vì vậy đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể để thực hiện. Nó sẽ được Luật hoá vào thời điểm thích hợp.

Việc quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật hiện hành là quá chặt so với thông lệ quốc tế, vì vậy cần sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi giới hạn quyền, để tạo điều kiện cho việc khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố. Tuy nhiên, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính là những loại hình đặc thù, vì vậy không được phép sao chép để sử dụng cá nhân, kể cả mục đích nghiên cứu và giáo dục.

6

Điều 26. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của Chính phủ.

Điều 26. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận.

Điều 26 chưa tương thích với Điều 11bis về quyền phát sóng của Công ước Berne: “2. Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có quyền quy định những điều kiện  áp dụng những quyền nói ở khoản (1) trên đây. Nhưng những điều kiện đó chỉ được áp dụng ở quốc gia ban hành. Dù bất kỳ trường hợp nào, những điều kiện đó cũng không được vi phạm quyền tinh thần của tác giả, cũng như quyền tác giả được nhận thù lao thích đáng do cơ quan có trách nhiệm quy định, ngay cả trong trường hợp không có văn bản thoả thuận.”

Thực hiện cam kết tham gia WTO của Việt Nam

Thực hiện Nghị quyết 71/2006/QH11 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam quy định áp dụng trực tiếp Điều 26, 33 Luật Sở hữu trí tuệ phù hợp với Điều 11bis Công ước Berne.

Điều 778 Bộ luật Dân sự 1995 cũng đã có quy định phù hợp với thông lệ quốc tế: “Tổ chức phát thanh, truyền hình có các nghĩa vụ sau đây: 2. Ghi tên tác giả, tên người biểu diễn, bảo đảm sự toàn vẹn nội dung tác phẩm và trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, nếu sử dụng tác phẩm đã công bố để xây dựng chương trình phát thanh, truyền hình của mình”

7

Điều 27. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả           

2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:

a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;

Điều 27. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả

2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:

a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;

Áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc vì Việt Nam là thành viên của WTO theo điều 4 của Hiệp định TRIPS (Về  những khía cạnh thương mại của Sở hữu trí tuệ): “Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một nước thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các thành viên khác.”

Tạo ra sự bình đẳng đối xử giữa công dân và pháp nhân Việt Nam với công dân và pháp nhân Hoa Kỳ (BTA cam kết thời hạn bảo hộ 75 năm cho công dân và pháp nhân Hoa Kỳ đối với loại hình không tính theo nguyên tắc đời người) và cũng là với công dân của các nước khác.

Xu thế của thế giới về việc nâng thời hạn bảo hộ đối với loại hình không tính theo nguyên tắc đời người để tạo ra cân bằng với loại hình tính theo nguyên tắc đời người, vì tuổi thọ trung bình đã được nâng lên. (Việt Nam có tuổi thọ bình quân là 73).

8

Điều 30. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình

1. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sau đây:

b) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.

Điều 30. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình

1. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sau đây:

b) Nhập khẩu, phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.

Bổ sung cụm từ “nhập khẩu” là phù hợp với Điều 2 Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ: “Mỗi quốc gia ký kết sẽ bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm là công dân của các quốc gia ký kết khác chống lại việc làm bản sao mà không được sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi âm đó và chống lại việc nhập khẩu các bản sao đó, với điều kiện là việc làm bản sao hoặc nhập khẩu đó là nhằm mục đích phân phối tới công chúng, và chống lại việc phân phối các bản sao đó tới công chúng”.

Việc bổ sung này cũng phù hợp với Điều 4 khoản 6 BTA: “Mỗi Bên dành cho người có quyền đối với bản ghi âm quyền cho phép hoặc cấm: ...B. Nhập khẩu vào lãnh thổ của Bên đó bản sao của bản ghi âm;”. Đồng thời nó cũng phù hợp với điểm d khoản 1 Điều 20 Luật SHTT về quyền tài sản thuộc quyền tác giả: “d. Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm”.

9

Điều 33. Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng:

a) Sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

Điều 33. Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng:

a) Sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

Điều 33 chưa tương thích với Điều 11bis về quyền phát sóng của Công ước Berne: “2. Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có quyền quy định những điều kiện  áp dụng những quyền nói ở khoản (1) trên đây. Nhưng những điều kiện đó chỉ được áp dụng ở quốc gia ban hành. Dù bất kỳ trường hợp nào, những điều kiện đó cũng không được vi phạm quyền tinh thần của tác giả, cũng như quyền tác giả được nhận thù lao thích đáng do cơ quan có trách nhiệm quy định, ngay cả trong trường hợp không có văn bản thoả thuận.”

Thực hiện cam kết tham gia WTO của Việt Nam

Thực hiện Nghị quyết 71/2006/QH11 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam quy định áp dụng trực tiếp Điều 26, 33 Luật Sở hữu trí tuệ phù hợp với Điều 11bis Công ước Berne.

Điều 778 Bộ luật Dân sự 1995 cũng đã có quy định phù hợp với thông lệ quốc tế: “Tổ chức phát thanh, truyền hình có các nghĩa vụ sau đây: 2. Ghi tên tác giả, tên người biểu diễn, bảo đảm sự toàn vẹn nội dung tác phẩm và trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, nếu sử dụng tác phẩm đã công bố để xây dựng chương trình phát thanh, truyền hình của mình”

10

Điều 34. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan

1. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình.

2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.

3. Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được thực hiện.

Điều 34. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan

1. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ năm mươi năm bảy mươi lăm năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình.

2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ năm mươi năm bảy mươi lăm năm tính từ năm tiếp theo năm công bố hoặc năm mươi năm bảy mươi lăm năm kể từ năm tiếp theo năm bản ghi âm, ghi hình được định hình nếu bản ghi âm, ghi hình chưa được công bố.

3. Quyền của tổ chức phát sóng được bảo hộ năm mươi năm bảy mươi lăm năm tính từ năm tiếp theo năm chương trình phát sóng được thực hiện

 

Áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc vì Việt Nam là thành viên của WTO theo điều 4 của Hiệp định TRIPS (Về  những khía cạnh thương mại của Sở hữu trí tuệ): “Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một nước thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các thành viên khác.”

Tạo ra sự bình đẳng đối xử giữa công dân và pháp nhân Việt Nam với công dân và pháp nhân Hoa Kỳ (BTA cam kết thời hạn bảo hộ 75 năm cho công dân và pháp nhân Hoa Kỳ đối với loại hình không tính theo nguyên tắc đời người) và cũng là bình đẳng với công dân các thành viên khác của WTO

Xu thế của thế giới về việc nâng thời hạn bảo hộ đối với loại hình không tính theo nguyên tắc đời người để tạo ra cân bằng với loại hình tính theo nguyên tắc đời người, vì tuổi thọ trung bình đã được nâng lên. (Việt Nam có tuổi thọ bình quân là 73).

11

Điều 42. Chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước

1. Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau đây:

a) Tác phẩm khuyết danh;

 

Điều 42. Chủ sở hữu quyền tác giả là nhà nước

1. Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau đây:

a) Tác phẩm khuyết danh, trong trường hợp do tổ chức, cá nhân đang quản lý thì họ được hưởng quyền của chủ sở hữu. Khi danh tính chủ sở hữu được xác định thì quyền sở hữu thuộc về chủ sở hữu đó, kể từ ngày danh tính chủ sở hữu được xác định.

Bổ sung tại điểm a khoản 1 Điều 42 về tác phẩm khuyết danh theo hướng tổ chức cá nhân quản lý được hưởng quyền của chủ sở hữu đến khi danh tính của chủ sở hữu xuất hiện. Quy định này phù hợp với Điều 15 khoản 3 Công ước Berne: “3. Đối với những tác phẩm khuyết danh và những tác phẩm bút danh, khác với những tác phẩm đã nói ở khoản (1) trên đây, Nhà xuất bản có tên ghi trên tác phẩm được thừa nhận là đại diện của tác giả mà không cần bằng chứng gì khác. Với tư cách này, Nhà xuất bản hưởng quyền được bảo hộ và thực thi quyền của tác giả. Quy định của khoản này sẽ hết hiệu lực khi  tác giả tiết lộ danh tính và chứng minh được mình là tác giả.”

 

 

 

STT

Điều, khoản hiện hành

Điều, khoản sửa đổi, bổ sung

Lý do sửa đổi, bổ sung

12

Điều 87. Quyền đăng ký nhãn hiệu

 

 

Điều 87. Quyền đăng ký nhãn hiệu

4B. Đối với địa danh và các dấu hiệu khác chỉ nguồn gốc địa lý của các đặc sản địa phương của Việt Nam có tiềm năng đăng ký chỉ dẫn địa lý, việc đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận phải được cơ quan, tổ chức có quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý cho phép. Các quy định về quyền đăng ký, quản lý chỉ dẫn địa lý tại Luật này cũng áp dụng đối với các nhãn hiệu nêu trên.

Địa danh dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc địa phương tương ứng là những chỉ dẫn địa lý điển hình, có thể được bảo hộ dưới 3 hình thức đăng ký sở hữu công nghiệp: (i) chỉ dẫn địa lý; (ii) nhãn hiệu chứng nhận và (iii) nhãn hiệu tập thể. Hình thức đăng ký nhãn hiệu đặc biệt tỏ ra đắc dụng, vì không tốn kém công của khảo nghiệm thực địa, thích hợp với những chỉ dẫn địa lý có tiềm năng nhưng chưa thực sự đáp ứng điều kiện đăng ký chỉ dẫn địa lý. Luật SHTT quy định quyền của Nhà nước đối với chỉ dẫn địa lý trong phần quy định về chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, chưa có quy định tương ứng  đối với hình thức đăng ký nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể.

 Vì vậy, trong quy định về chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu chỉ nguồn gốc địa lý (Điều 87.3) và nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý (Điều 87.4) của sản phẩm cần xác định rõ thẩm quyền của Nhà nước đối với chỉ dẫn địa lý bao hàm cả quyền đối với các dấu hiệu, tên gọi có tiềm năng bảo hộ chỉ dẫn địa lý, đặc biệt là các địa danh dùng làm tên gọi của đặc sản địa phương (kể cả đăng ký dưới hình thức nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận) để bảo đảm áp dụng các cơ chế bảo hộ khác nhau đối với đối tượng này.

 Do đó, cần bổ sung quy định về quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm (là chỉ dẫn địa lý chưa được đăng ký) để bảo đảm Nhà nước có quyền quản lý các đối tượng đó dưới danh nghĩa chỉ dẫn địa lý, kể cả trong trường hợp không đăng ký chỉ dẫn địa lý.

13

Điều 90. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên

1. Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký cùng một sáng chế hoặc đăng ký các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau hoặc đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.

2. Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo sự thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận được thì tất cả các đơn đều bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

 

Điều 90. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên

1. Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký cùng một  các sáng chế trùng hoặc tương đương với nhau, hoặc đăng ký các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau hoặc đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.

2. Trong trường hợp có các nhãn hiệu trùng nhau hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau, trong các đơn đăng ký khác nhau của nhiều người nộp đơn khác nhau, hoặc có các nhãn hiệu trùng nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau trong các đơn đăng ký khác nhau của cùng một người nộp đơn thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.

(i) Cần quy định rằng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (Điều 90.1) được áp dụng cho cả trường hợp các đơn khác nhau đối với cùng một đối tượng do cùng một người nộp. Về bản chất, đó là nguyên tắc không cấp nhiều văn bằng về cùng một đối tượng cho cùng một người. Nguyên tắc này không được quy định trong Luật và được áp dụng như một nguyên tắc đương nhiên, do đó gây tranh cãi.

Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (Điều 90.1) cũng cần phải được áp dụng cả đối với các sáng chế chỉ khác nhau ở những dấu hiệu không được coi là dấu hiệu khác biệt. Nguyên tắc này có bản chất là không cấp nhiều văn bằng cho cùng một người đối với những sáng chế chỉ khác nhau không đáng kể, để tránh các chủ sở hữu mở rộng phạm vi bảo hộ bằng cách xin cấp bằng cho cùng sáng chế với những thay đổi, bổ sung không đáng kể. Nguyên tắc này trước đây được bảo đảm nhờ quy định về cơ sở đánh giá  tính mới của sáng chế, theo đó tình trạng kỹ thuật đã biết bao gồm cả các đơn nộp sớm hơn. Nhưng quy định đó đã bị bãi bỏ (không được đưa vào Luật SHTT) vì thể hiện không đúng bản chất của quy định về tính mới. Nếu thống nhất hiểu rằng các sáng chế chỉ khác biệt bởi các dấu hiệu không cơ bản được coi là cùng một sáng chế, để áp dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên thì bảo đảm được mục tiêu nêu trên. Tuy nhiên, nếu sửa chữa lời văn của Luật để làm rõ điều đó thì mới bảo đảm việc thi hành không gây tranh cãi.

 

 

3. 2. Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký nêu tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho đối tượng thuộc một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo sự thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận được thì tất cả đối tượng tương ứng thuộc các đơn đó đều bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

(ii) Bổ sung dẫn chiếu đến khoản 1 Điều này để thể hiện đúng rằng khoản 2 là tình huống đặc biệt  của khoản 1 chứ không phải là trường hợp khác với khoản 1.

Quy định sửa đổi, bổ sung nêu trên cũng bảo đảm được nguyên tắc không cấp văn bằng trùng lặp để tránh trường hợp chủ văn bằng bảo hộ lạm dụng hai văn bằng để thực hiện quyền hai lần (hành vi xâm phạm một đối tượng có thể bị coi là xâm phạm hai quyền), hoặc để kéo dài thời hạn bảo hộ thực tế đối với sáng chế (bằng cách nộp đơn thứ hai ngay trước thời điểm kết thúc thời hạn ưu tiên và hưởng thời hạn bảo hộ tính theo ngày nộp đơn muộn hơn), hoặc để tránh bị đình chỉ hiệu lực văn bằng bảo hộ.

14

Điều 119. Thời hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp

1. Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định hình thức trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn.

2. Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định nội dung trong thời hạn sau đây:

a) Đối với sáng chế là mười hai tháng kể từ ngày công bố đơn nếu yêu cầu thẩm định nội dung được nộp trước ngày công bố đơn hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu thẩm định nội dung nếu yêu cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn;

b) Đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý là sáu tháng kể từ ngày công bố đơn.

3. Thời hạn thẩm định lại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bằng hai phần ba thời hạn thẩm định lần đầu, đối với những vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài nhưng không vượt quá thời hạn thẩm định lần đầu.

4. Thời gian dành cho việc sửa đổi, bổ sung đơn không được tính vào các thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

 

Điều 119. Thời hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp

1. Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định hình thức trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn.

2. Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định nội dung trong thời hạn sau đây:

a) Đối với sáng chế là mười tám tháng kể từ ngày công bố đơn nếu yêu cầu thẩm định nội dung được nộp trước ngày công bố đơn hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu thẩm định nội dung nếu yêu cầu đó được nộp sau ngày công bố đơn;

b) Đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý là chín tháng kể từ ngày công bố đơn.

3. Thời hạn thẩm định lại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bằng hai phần ba thời hạn thẩm định lần đầu, đối với những vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài nhưng không vượt quá thời hạn thẩm định lần đầu.

4. Thời gian dành cho người nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn không được tính vào các thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. Thời hạn xử lý các yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn không vượt quá một phần ba thời gian thẩm định tương ứng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”

 

 

Thời hạn thẩm định đơn đăng ký sở hữu công nghiệp theo quy định hiện hành là không khả thi, mặc dù cơ quan đăng ký sở  hữu công nghiệp đã thực hiện nhiều biện pháp nhưng vẫn không thực hiện được và luôn rơi vào tình trạng vi phạm pháp luật. Thời hạn này cần được điều chỉnh để vừa tạo được sự minh bạch của pháp luật, vừa có tính khả thi vì những lý do sau đây:

Quá trình thẩm định đơn bao gồm 2 giai đoạn: thẩm định hình thức và thẩm định nội dung đơn.

Thẩm định hình thức đơn là việc xem xét đơn có hay không đạt các yêu cầu về hình thức, như yêu cầu về số lượng cũng như cách trình bày các tài liệu có trong hồ sơ đơn, lệ phí…, để đơn có thể được chấp nhận hợp lệ và được ghi nhận ngày nộp đơn – là ngày rất quan trọng đối với chủ đơn để hưởng quyền ưu tiên. Cần tập trung các nỗ lực của Cơ quan sở hữu trí tuệ để đảm bảo thời hạn thẩm định hình thức theo quy định hiện hành (1 tháng).

Thẩm định nội dung đơn là việc đánh giá đối tượng nêu trong đơn đăng ký có phù hợp các tiêu chuẩn bảo hộ hay không. Đây là một quá trình phức tạp và đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để thực hiện các công việc sau đây:

- Tra cứu thông tin để so sánh, đánh giá đối tượng trong đơn đăng ký (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu…), gồm thông tin về các đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng trong các đơn đăng ký, văn bằng đã cấp,  cũng như các tài liệu liên quan khác đang tồn tại không chỉ tại Việt Nam mà trên toàn thế giới. Số lượng các tài liệu này là rất lớn và đa dạng, quá trình đánh giá cũng rất phức tạp đối với tất cả các đối tượng sở hữu công nghiệp.

- Theo Điều 6 bis của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (Việt Nam là thành viên) về “quyền ưu tiên” thì việc thẩm định nội dung đơn sở hữu công nghiệp không thể  được kết thúc trước khi hết thời hạn xin hưởng quyền ưu tiên của các đơn đã được nộp ở nước ngoài (6 tháng đối với đơn kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu và 12 tháng đối với đơn sáng chế) khi đã tiếp nhận tất cả các Đơn khác của chủ thể nước ngoài đã được nộp trong thời gian trên, vì trong số các Đơn tuy nộp sau này có thể có Đơn được hưởng quyền ưu tiên theo Công ước Paris sớm hơn. Việc cấp Văn bằng bảo hộ sớm có nguy cơ gây tranh chấp về quyền ưu tiên dẫn đến việc hủy bỏ Văn bằng sau đó, gây phiền toái, tốn kém cho các chủ thể được hưởng quyền ưu tiên, gây mất ổn định và tổn hại cho việc đầu tư để khai thác quyền sở hữu công nghiệp cho người được cấp bằng sai và tạo thêm gánh nặng công việc cho cơ quan sở hữu trí tuệ.

- Đối với sáng chế, hầu hết đơn là của người nước ngoài (chủ yếu là Nhật, Mỹ, Châu Âu) nếu thời gian thẩm định không đủ dài thì ta không sử dụng được kết quả thẩm định của nước ngoài, nhất là đối với các sáng chế thuộc công nghệ cao mà ta còn gặp khó khăn trong thẩm định.

- Với việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO và luật pháp sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện thì số đơn đăng ký sở hữu công nghiệp của các chủ thể trong và ngoài nước ngày càng tăng lên, đặc biệt do sự ra đời hàng loạt của các doanh nghiệp trong thời gian qua làm đơn đăng ký gia tăng một cách đột biến, kéo theo sự gia tăng các đơn khiếu nại và đơn phản đối cấp Văn bằng bảo hộ. Do đó, công tác thẩm định của Cơ quan sở hữu trí tuệ càng thêm phức tạp và nếu bị ép về mặt thời gian thì sẽ dẫn đến kết quả thẩm định không chính xác.

Đối với người đăng ký sở hữu công nghiệp thì điều quan trọng là ngày nộp đơn của họ được ghi nhận tại Cơ quan sở hữu trí tuệ, vì đó là cơ sở để xác định quyền ưu tiên so với người khác. Trong thời gian chờ cấp Văn bằng, quyền lợi của người nộp đơn vẫn được thừa nhận. Vì thế pháp luật về sở hữu trí tuệ của các nước không quy định thời hạn cụ thể cho việc thẩm định đơn. Chỉ có một số nước có các mệnh lệnh hành chính (ví dụ Chỉ thị của Nội các Nhật Bản: 18 tháng đối với Đơn Nhãn hiệu) hoặc quy định nội bộ của Cơ quan xử lý đơn (ví dụ Quy chế thẩm định đơn của Cơ quan sở hữu trí tuệ Singapore: 36 tháng đối với đơn sáng chế). Thời gian xử lý đơn trong thực tế của các nước không ngắn. Ví dụ, thời gian trung bình xử lý một đơn nhãn hiệu ở hiện nay Trung Quốc là 2 năm; ở Nhật Bản hiện nay khoảng 12 tháng, cách đây 10 năm mất đến 17 tháng. Năng lực cán bộ và điều kiện kỹ thuật của ta hiện nay khó sánh với của Nhật Bản, vì vậy không thể thực hiện một thời hạn ngắn hơn thời hạn tương ứng của họ.

Hàng loạt biện pháp nhằm thực hiện các quy định về thời hạn đã được áp dụng, như đơn giản hóa thủ tục hành chính, tự động hóa quy trình xử lý đơn, nâng cao hiệu suất lao động, làm thêm giờ và làm thêm cuối tuần… Tuy vậy, khó khăn trên vẫn không giải quyết được về cơ bản, cơ quan sở hữu trí tuệ luôn trong tình trạng vi phạm pháp luật.

Việc người nộp đơn mong muốn được xét, cấp Văn bằng sớm là chính đáng, tuy vậy, nếu việc thẩm định lại chỉ được thực hiện trong một thời gian không đủ hoặc bị ép do nhu cầu cải cách hành chính thì tác dụng sẽ ngược lại. Các văn bằng cấp ra không đủ độ chính xác, dễ bị kiện tụng hoặc hủy bỏ, gây thiệt hại cho chính chủ xin đăng ký sở hữu công nghiệp.

Để giải quyết thực tế nêu trên nhằm bảo đảm việc cấp văn bằng chính xác, đảm bảo tính khả thi của pháp luật và phù hợp với Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đề nghị tăng thời hạn thẩm định nội dung đơn lên 1,5 lần (đối với đơn sáng chế, từ 12 tháng thành 18 tháng và đối với đơn nhãn hiệu và kiểu dáng, từ 6 tháng thành 9 tháng).

15

Điều 134. Quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp

1. Trường hợp trước ngày đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.

Điều 134. Quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp

1. Trường hợp trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên, nếu có, của đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.

Quy định về mốc thời gian làm căn cứ xác định quyền sử dụng trước là ngày công bố đơn sáng chế theo Luật SHTT (khoản 1 Điều 134) có tính hợp lý ở chỗ dành quyền sử dụng cho những người sử dụng, chuẩn bị sử dụng sáng chế được tạo ra một cách độc lập với chủ văn bằng (tự tạo ra hoặc đầu tư để được chuyển giao sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, quy định này bị cho là không phù hợp với quy định về quyền ưu tiên của đơn sáng chế, kiểu dáng công nghiệp tại Điều 4.B của Công ước Pari mà Việt Nam là thành viên, theo đó, không một hành vi nào do bên thứ ba thực hiện trong thời hạn ưu tiên (từ ngày ưu tiên đến hết 12 tháng đối với sáng chế và 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu) có thể làm phát sinh bất kỳ quyền nào cho bên thứ ba. Vì vậy, mốc “trước ngày đơn được công bố” cần phải thay thế bằng “trước ngày ưu tiên của đơn”.

16

Điều 154. Điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp

Tổ chức đáp ứng các điều kiện sau đây được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp với danh nghĩa tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp:

1. Là doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập và hoạt động hợp pháp;

2. Có chức năng hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh);

3. Người đứng đầu tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức uỷ quyền phải đáp ứng các điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 155 của Luật này.

 

Điều 154. Điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp

1. Tổ chức đáp ứng các điều kiện sau đây được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp với danh nghĩa tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp:

 a) 1. Là doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ    cách pháp lý độc lập, được thành lập và hoạt động hợp pháp theo pháp luật của Việt Nam;

b) 2. Có chức năng hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh);

c) 3. Người đứng đầu tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức uỷ quyền phải đáp ứng các điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 155 của Luật này.

2. Văn phòng đại diện, chi nhánh và các đơn vị phụ thuộc về tư cách pháp lý của doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ chỉ được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp dưới danh nghĩa của tổ chức mà mình phụ thuộc, với điều kiện tổ chức đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này.

Bổ sung quy định tại khoản 1 để làm rõ quyền được kinh doanh dịch vụ SHTT của tổ chức nước ngoài, vì khái niệm “tổ chức” nêu tại Điều 154 (và trong toàn bộ Luật SHTT) có thể hiểu theo nghĩa rất rộng, bao  gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện và  đơn vị phụ thuộc của một tổ chức khác. Trong khi đó, mục tiêu điều chỉnh của điều luật này là bảo đảm có một đội ngũ các tổ chức có đủ năng lực pháp luật và năng lực chuyên môn để cung cấp dịch vụ cho những tổ chức, cá nhân trong việc tiến hành các thủ tục về sở hữu công nghiệp. Đó là dịch vụ đại diện, tức là thay mặt, hoạt động vì quyền lợi của các tổ chức, cá nhân khác thực hiện các thủ tục trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, các tổ chức này phải có tư cách pháp lý độc lập (nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập) để đủ năng lực chịu trách nhiệm pháp luật trong quan hệ dân sự với bên được đại diện và trong quan hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, cần thiết phải bổ sung quy định làm rõ rằng chỉ có những tổ chức có tư cách pháp lý độc lập mới được hoạt động đại diện sở hữu công nghiệp; Chi nhánh, văn phòng đại diện và  đơn vị phụ thuộc của một tổ chức khác, không có tư cách pháp lý độc lập chỉ được hoạt động dưới danh nghĩa của các tổ chức mà mình trực thuộc. Quy định năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của tổ chức cung cấp dịch vụ một mặt bảo đảm quyền lợi của người sử dụng dịch vụ, mặt tránh được tình trạng các tổ chức nước ngoài không thành lập đơn vị có tư cách pháp lý độc lập tại Việt Nam cung cấp dịch vụ này, dành phần lớn thị phần của các tổ chức Việt Nam, bởi vì hoạt động đại diện ở nước ta hiện nay chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho người nước ngoài.

17

Điều 157. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng

2. Tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc nước có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng; tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam

Điều 157. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng

2. Tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc nước có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng; tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân của nước không ký kết với Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng nhưng có địa chỉ thường trú hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại nước có ký kết với Việt nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng.

 

 

Để phù hợp điều 4 của Công ước UPOV 1991: tổ chức, cá nhân nước ngoài bao gồm cả công dân và cư dân của nước có ký kết với Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng.

18

Điều 160. Tính khác biệt của giống cây trồng

2. Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch của giống đó đã được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;

b) Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mục loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;

c) Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mục loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối;

d) Giống cây trồng mà bản mô tả chi tiết của giống đó đã được công bố.

Điều 160. Tính khác biệt của giống cây trồng

2. Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm vật liệu thu hoạch của giống đó được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;

b) Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mục loài giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;

c) Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc được trong đơn đăng ký vào Danh mục loài giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối.

d) Giống cây trồng mà bản mô tả chi tiết của giống đó đã được công bố.

Không có trong điều 8 của Công ước UPOV 1991

 

 

19

Điều 163. Tên của giống cây trồng

1. Người đăng kýý phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cùng một tên như tên đã đăng ký ở bất kỳ quốc gia nào khi nộp đơn đăng ký bảo hộ.

3. Tên của giống cây trồng không được coi là phù hợp trong các trường hợp sau đây:

a) Chỉ bao gồm các chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống đó;

b) Vi phạm đạo đức xã hội;

c) Dễ gây hiểu nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó;

d) Dễ gây hiểu nhầm về danh tính của tác giả;

đ) Trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng kýý bảo hộ giống cây trồng;

e) Trùng hoặc tương tự với tên của sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng đó;

g) Ảnh hưởng đến quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác.

 

Điều 163. Tên của giống cây trồng

1. Người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng tại cơ quan quản lý Nhà nước về quyền đối với giống cây trồng, tên đó phải trùng với cùng một tên như tên đã đăng ký ở bất kỳ quốc gia nào khi nộp đơn đăng ký bảo hộ ở bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng.

3. Tên của giống cây trồng không được coi là phù hợp trong các trường hợp sau đây:

a) Chỉ bao gồm các chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống đó;

b) Vi phạm đạo đức xã hội;

c) Dễ gây hiểu nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó;

d) Dễ gây hiểu nhầm về danh tính của tác giả;

đ) Trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng kýý bảo hộ giống cây trồng;

e) Trùng hoặc tương tự với tên của sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng đó;

e) g) Ảnh hưởng đến quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác.

Để phù hợp đấy đủ hơn với điều 20 của Công ước UPOV 1991.

20

Điều 165. Cách thức nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng

1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng (sau đây gọi là đơn đăng ký bảo hộ) trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài không có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

 

Điều 165. Cách thức nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng

1. Tổ chức, cá nhân quy định tại điều 157 của Luật này Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng (sau đây gọi là đơn đăng ký bảo hộ) trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài không có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

Chính phủ hướng dẫn cụ thể về đại diện hợp pháp nộp đơn và tổ chức dịch vụ đại diện quyền sở hữu đối với giống cây trồng.

Để phù hợp với điều 4 Công ước UPOV 1991.

Để phù hợp điều 157 của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi. Cần bổ sung quy định về tổ chức, cá nhân hành nghề dịch vụ sở hữu giống cây trồng để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của bảo hộ giống cây trồng.

Để tạo điều kiện thuận cho người nước ngoài trực tiếp nộp đơn đăng ký xác lập quyền.

Hiện Luật Sở hữu trí tuệ chưa có quy định về đại diện quyền sở hữu đối với giống cây trồng, vì vậy bổ sung khoản 2 làm cơ sở cho việc hướng dẫn tại Nghị định của Chính phủ

 

21

Điều 178. Thẩm định nội dung đơn đăng ký bảo hộ 

1. Cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng thẩm định nội dung đối với đơn được chấp nhận là hợp lệ. Nội dung thẩm định bao gồm:

a) Thẩm định tính mới và tên gọi phù hợp của giống cây trồng;

b) Thẩm định kết quả khảo nghiệm kỹ thuật đối với giống cây trồng.

 

Điều 178. Thẩm định nội dung đơn đăng ký bảo hộ 

1. Cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng thẩm định nội dung đối với đơn được chấp nhận là hợp lệ. Nội dung thẩm định bao gồm:

a) Thẩm định tính mới; và tên gọi phù hợp của giống cây trồng;

b) Thẩm định tên gọi phù hợp của giống cây trồng. Trường hợp tên giống chưa phù hợp, cơ quan quản lý Nhà nước về quyền đối với giống cây trồng yêu cầu người đăng ký trong vòng 30 ngày từ khi nhận được thông báo phải đề xuất tên giống khác; tên chính thức của giống cây trồng là tên ghi trong văn bằng bảo hộ giống cây trồng đó. Cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng thông báo công khai việc đăng ký, chấp nhận hoặc thay đổi tên giống cây trồng để các bên liên quan có quyền tiếp cận và góp ý.

c) b) Thẩm định kết quả khảo nghiệm kỹ thuật đối với giống cây trồng.

Để phù hợp hơn với các khoản 2,3, 6 điều 20 của Công ước UPOV 1991, như yều cầu của Văn phòng UPOV.

22

Điều 186. Quyền của chủ bằng bảo hộ

 

Điều 186. Quyền của chủ bằng bảo hộ

...

2. Quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng quy định tại khoản 1 Điều này được áp dụng đối với vật liệu thu hoạch thu được từ việc sử dụng bất hợp pháp vật liệu nhân giống của giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp chủ bằng bảo hộ đã có cơ hội hợp lý thực hiện quyền của mình đối với vật liệu nhân giống nói trên.

23...

34...

 

 

Để phù hợp khoản 2 điều 14 của Công ước UPOV 1991.

 

23

Điều 187. Mở rộng quyền của chủ bằng bảo hộ 

Quyền của chủ bằng bảo hộ được mở rộng đối với các giống cây trồng sau đây:

1. Giống cây trồng có nguồn gốc từ giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây trồng được bảo hộ có nguồn gốc từ một giống cây trồng đã được bảo hộ khác.

Giống cây trồng được coi là có nguồn gốc từ giống được bảo hộ nếu giống cây trồng đó vẫn giữ lại biểu hiện của các tính trạng chủ yếu thu được từ kiểu gen hoặc sự phối hợp các kiểu gen của giống được bảo hộ, trừ những khác biệt là kết quả của sự tác động vào giống được bảo hộ; 

Điều 187. Mở rộng quyền của chủ bằng bảo hộ 

Quyền của chủ bằng bảo hộ được mở rộng đối với các giống cây trồng sau đây:

1. Giống cây trồng có nguồn gốc thực chất từ giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây trồng được bảo hộ có nguồn gốc thực chất từ một giống cây trồng đã được bảo hộ khác.

Giống cây trồng được coi là có nguồn gốc thực chất từ giống được bảo hộ, nếu giống cây trồng đó chủ yếu vẫn giữ lại biểu hiện của các tính trạng thu được từ kiểu gen hoặc sự phối hợp các kiểu gen của giống được bảo hộ, trừ những tính trạng khác biệt là kết quả của sự tác động vào giống được bảo hộ bằng chuyển gen, lai trở lại hoặc đột biến tự nhiên hay nhân tạo, biến dị sôma, biến bị cá thể từ quần thể của giống được bảo hộ;

- Để phù hợp một cách đầy đủ hơn với khoản 5 điều 14 của Công ước UPOV 1991 và không gây nhầm lẫn với trường hợp được tự do sử dụng giống cây trồng được bảo hộ để tạo ra giống cây trồng mới bằng các phương pháp truyền thống.

- Để bảo vệ quyền lợi các nhà tạo giống bằng phương pháp truyền thống (mất nhiều công sức, kinh phí) trước việc ứng dụng công nghệ sinh học, chủ yếu công nghệ gen trong tạo giống cây trồng.

24

Điều 188. Hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng

Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền của chủ bằng bảo hộ: 

3. Sử dụng giống cây trồng đã được bảo hộ mà không trả tiền đền bù theo quy định tại Điều 189 của Luật này.

Điều 188. Hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng

Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền của chủ bằng bảo hộ: 

3. Sử dụng giống cây trồng đã được đăng ký bảo hộ mà không trả tiền đền bù theo quy định tại Điều 189 của Luật này.

Để chính xác và phù hợp hơn với điều 189 của Luật.

25

Điều 190. Hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng

1. Các hành vi sau đây không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ:

a) Sử dụng giống cây trồng phục vụ nhu cầu cá nhân và phi thương mại;

b) Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích lai tạo để nghiên cứu khoa học; 

c) Sử dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng mới khác biệt với giống cây trồng đã được bảo hộ;

d) Hộ sản xuất cá thể sử dụng sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng được bảo hộ để tự nhân giống và gieo trồng cho vụ sau trên diện tích đất của mình. 

2. Quyền đối với giống cây trồng không được áp dụng đối với các hành vi liên quan đến vật liệu của giống cây trồng được bảo hộ do chủ bằng bảo hộ hoặc người được chủ bằng bảo hộ cho phép bán hoặc bằng cách khác đưa ra thị trường Việt Nam hoặc thị trường nước ngoài, trừ các hành vi sau đây:

a) Liên quan đến việc nhân tiếp giống cây trồng đó;

b) Liên quan đến việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây trồng có khả năng nhân giống vào những nước không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng đó, trừ trường hợp xuất khẩu vật liệu nhằm mục đích tiêu dùng.

 

Điều 190. Hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng

1. Các hành vi sau đây không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ:

a) Sử dụng giống cây trồng phục vụ nhu cầu cá nhân và phi thương mại;

b) Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích lai tạo để nghiên cứu khoa học; 

c) Sử dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng mới khác biệt với giống cây trồng đã được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây trồng quy định tại khoản 1,2,3  Điều 187 của Luật này.

d) Hộ sản xuất cá thể sử dụng sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng được bảo hộ để tự nhân giống và gieo trồng cho vụ sau trên diện tích đất của mình, trừ trường hợp giống cây trồng được bảo hộ thuộc Danh mục loài cây trồng nông dân không được tự giữ giống hoặc Danh mục loài cây trồng nông dân được tự giữ giống, nhưng có giới hạn diện tích.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành các Danh mục nói trên.

2. Quyền đối với giống cây trồng không được áp dụng đối với các hành vi liên quan đến vật liệu nhân, vật liệu thu hoạch của giống cây trồng được bảo hộ, cũng như của giống cây trồng quy định tại khoản 1,2,3 Điều 187 của Luật này, khi do chủ bằng bảo hộ hoặc người được chủ bằng bảo hộ cho phép bán hoặc bằng cách khác đưa ra thị trường Việt Nam hoặc nước ký kết với Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng hoặc khi vật liệu bất kỳ nào được tạo ra từ vật liệu nói trên thị trường nước ngoài, trừ các hành vi sau đây:

a) Liên quan đến việc nhân tiếp giống cây trồng đó;

b) Liên quan đến việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây trồng có khả năng nhân giống vào những nước không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng đó, trừ trường hợp xuất khẩu vật liệu nhằm mục đích tiêu dùng.

Để phù hợp đầy đủ hơn với khoản 2 điều 15 của Công ước 1991; vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng mới, thúc đẩy họ đầu tư tạo giống và đăng ký bảo hộ ở Việt Nam, vừa đảm bảo “ quyền của nông dân” trong tự lưu giữ giống, nhất là đối với những loài cây thiết yếu với cuộc sống của nông dân và đảm bảo an ninh quốc gia.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sửa khoản 2 để phù hợp hơn với Điều 16 Công ước UPOV 1991, liên quan nhiều đến việc trao đổi giống, hoặc nhập khẩu giống cho nghiên cứu, khảo nghiệm hoặc  kinh doanh.

26

Điều 194. Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng 

 

Điều 194. Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng 

4. Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng tạo ra bằng ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ.”

Khoản 8 điều 3, khoản 1 điều 8, điểm c khoản 2 điều 12, các Điều 16, 22, 25, 40, 42 Luật chuyển giao công nghệ quy định khá cụ thể về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghệ (trong đó có giống cây trồng) tạo ra bằng ngân sách nhà nước. Trong khi Luật SHTT (2005) và Nghị định 104/2006/NĐ-CP quy định không cụ thể, rất khó thực hiện.

27

Điều 201. Giám định về sở hữu trí tuệ

1. Giám định về sở hữu trí tuệ là việc tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền trưng cầu giám định về sở hữu trí tuệ khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý.

3. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền yêu cầu giám định về sở hữu trí tuệ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

4. Chính phủ quy định cụ thể hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.

 

Điều 201. Giám định về sở hữu trí tuệ

1. Giám định về sở hữu trí tuệ là việc tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để đánh giá, kết luận về những vấn đề có liên quan đến vụ việc xâm phạm  quyền sở hữu trí tuệ.

2. Tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật được thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ. 

3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vụ việc về sở hữu trí tuệ có quyền trưng cầu giám định về sở hữu trí tuệ khi giải quyết vụ việc mà mình đang thụ lý.

4. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền yêu cầu giám định về sở hữu trí tuệ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

5. Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.

- Tách nội dung về chủ thể được hoạt động giám định khỏi khoản 1 Điều 201 thành một khoản riêng (khoản 2 mới) để quy định rõ và tách bạch với  khái niệm giám định sở hữu trí tuệ.

- Các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ quản lý cả hoạt động giám định sở hữu trí tuệ, do đó không nên thực hiện hoạt động giám định. Hoạt động giám định cần được giao cho các tổ chức sự nghiệp của nhà nước và cần xã hội hóa hoạt động này. Tuy nhiên, tình trạng chung của nhà nước ta hiện nay là nhiều hoạt động sự nghiệp vẫn do cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Để tận dụng nguồn lực chuyên gia và kinh nghiệm chuyên môn, cơ quan nhà nước có thể thành lập tổ chức sự nghiệp độc lập cùng với các tổ chức tư nhân ngoài nhà nước thực hiện hoạt động dịch vụ giám định về sở hữu trí tuệ. Vì vậy, Dự thảo bổ sung khoản 2, khẳng đình rõ “Tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật được thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.”

- Mặc dù Điều 201 thuộc Phần V của Luật (Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ), nhưng hoạt động giám định cần đáp ứng các nhu cầu khác nhau: phục vụ hoạt động thực thi, hoạt động xác lập quyền và đáp ứng các nhu cầu xã hội khác; phục vụ các hoạt động tư pháp, hành chính và dân sự. Vì vậy, Dự thảo xóa bỏ yếu tố “xâm phạm quyền” tại khoản 1 và khoản 3 để quy định về giám định có thể áp dụng đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung, cho các mục đích giám định khác nhau.

- Vì hoạt động giám định không chỉ giới hạn ở phục vụ hoạt động xét xử của tòa án, mà còn phục vụ các cơ quan hành chính có thẩm quyền xử lý xâm phạm và đáp ứng các nhu cầu trong xã hội, cho nên quy định tại điều này không nên bó buộc theo Pháp lệnh giám định tư pháp, mà để mở cho Chính phủ quy định cụ thể từng loại hoạt động giám định.

28

Điều 211. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính

1. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt hành chính:

a) Thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;

b) Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó;

c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;

d) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.

 

Điều 211. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính

1. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thuộc một trong các trường hợp sau đây bị xử phạt hành chính:

a) Thực hiện Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;

b) Không chấm dứt h Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện một cách cố ý mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó;

c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có đối tượng trực tiếp là hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 của Luật này  hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;

d) Hành vi sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, hoặc tàng trữ tem, nhãn hoặc các vật khác mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý giả mạo. trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.

 

 

1. Quy định về loại hành vi bị xử phạt hành chính tại điểm b khoản 1 Điều 211 “Không chấm dứt hành vi xâm phạm mặc dù đã được chủ thể quyền thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó” chỉ là một trong bốn loại hành vi bị xử phạt hành chính; Bên cạnh đó ba loại hành vi khác không bắt buộc phải có “thông báo trước”: (i) Gây thiệt hại cho người tiêu dùng, xã hội; (ii) hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và hàng sao lậu quyền tác giả, quyền liên quan (chứa yếu tố tội phạm); (iii) bao bì, đề can của hàng giả về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý;

 Ba loại hành vi không cần thông báo trước thực chất mới là những hành vi cần bị xử lý hành chính. Các hành vi xâm phạm không thuộc ba loại đó thực chất là xâm phạm quyền dân sự, đáng lẽ không bị xử lý hành chính. Quy định của Luật nhằm vào xâm phạm dân sự chỉ có ý nghĩa hỗ trợ thực thi bằng biện pháp dân sự, vì vậy, chỉ giới hạn ở những vi phạm dân sự mang tính chất cố ý (mặc dù đã có thông báo mà không chấm dứt). Quy định này cũng chỉ mang tính quá độ khi hệ thống toà dân sự chưa mạnh và nhằm giảm bớt tình trạng hành chính hoá quan hệ dân sự và tình trạng “đánh úp” những người vi phạm “ngay tình” trước đây mà Luật SHTT đã phải giải quyết. Mối lo ngại về khả năng tẩu tán, che đậy hành vi được giải quyết bằng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính đã được quy định tại Điều 215.

Cần nhìn nhận rằng đây là quy định về xử lý hành chính đối với loại hành vi này chỉ mang tính chất tạm thời trong thời kỳ quá độ tiến đến chỗ trao trả thẩm quyền này cho Tòa dân sự.

Vì vậy, cần sửa điều luật này để tổng quát hóa điều kiện “chủ thể quyền thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm” trước khi xử lý xâm phạm thành tính chất cố ý của hành vi xâm phạm (ví dụ trường hợp tính chất cố ý hiển nhiên vì vụ lợi, hoặc trường hợp vi phạm nhiều lần).

Xóa bỏ đối tượng bị xử phạt là người giao cho người khác thực hiện hành vi, vì không phù hợp với pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, theo đó đối tượng bị xử phạt phải là người thực hiện hành vi vi phạm.

 2. Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khoản 3 Điều 211 quy định xử lý hành chính theo pháp luật về cạnh tranh, còn văn bản dưới Luật cạnh tranh lại quy định theo pháp luật SHTT, vì vậy cần quy định gộp các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vào phần xử lý hành chính của Luật SHTT, cụ thể là vào điểm b khoản 1 Điều 211, vì cạnh tranh không lành mạnh có bản chất vi phạm quyền dân sự.

29

Điều 214. Các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả

2. Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

a) Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu,  phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;    

b) Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;

b) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.

 

Điều 214. Các hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả

2. Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:

a) Tịch thu hàng hoá xâm phạm quyền giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu,  phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền giả mạo về sở hữu trí tuệ;  

b) Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

a) Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá xâm phạm quyền  giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;

b) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá xâm phạm quyền giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.

 

Sửa đổi các khoản 2, 3 cho phù hợp với quy định tại Điều 211 về các hành vi bị xử phạt hành chính không chỉ liên quan đến hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, mà còn liên quan đến hàng hóa khác xâm phạm quyền (gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cho xã hội, cố ý xâm phạm) và hàng vi phạm (vật mang nhãn hiệu giả mạo).

- Liên quan đến vật chứng bị áp dụng các biện pháp xử phạt tại Điều 214, Dự thảo mở rộng “hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ” thành “hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” và cả phương tiện, nguyên liệu, vật liệu chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa đó, không chỉ đối với biện pháp “tịch thu” (điểm a khoản 2) mà cả các biện pháp “buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh” (điểm a khoản 3) và “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ”, “buộc tái xuất” (điểm b khoản 3).

Quy định mở rộng như vậy mới phù hợp với quy định về các loại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính tại khoản 1 Điều 211, không chỉ liên quan đến hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ (điểm c), mà còn liên quan đến hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong các trường hợp gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội (điểm a), cố ý xâm phạm (điểm b), hoặc tem nhãn hàng giả mạo (điểm d).

Hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhiều trường hợp còn gây tác hại hơn đối với xã hội so với hàng giả về sở hữu trí tuệ. Vì vậy, các biện pháp nêu trên là biện pháp bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả (bên cạnh cảnh cáo hoặc phạt tiền) có thể (không nhất thiết) được lựa chọn (một hoặc một số) áp dụng phù hợp với những điều kiện nhất định, tùy thuộc vào mức độ xâm phạm, giá trị sử dụng của hàng hóa, mức độ nguy hại của việc tiếp tục phân phối, sử dụng...  Các điều kiện như vậy được quy định tại các Điều từ 29 đến 32 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP) trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu cũng như người tiêu dùng và xã hội nói chung.

- “Hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” là khái niệm phổ thông, được hiểu là đối tượng của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (sản xuất, kinh doanh...hàng hóa mà không được phép của chủ sở hữu trí tuệ). Thuật ngữ này được dùng tại khoản 5 Điều 201 Luật SHTT, các thuật ngữ “hàng hóa xâm phạm”, “hàng hóa vi phạm” có cùng nghĩa như vậy cũng được dùng trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật SHTT (Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Nghị định số 106/2006/NĐ-CP...).

 

4. Mức tiền phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được.

Chính phủ quy định cụ thể cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm.

Phương án 1:

4. Chính phủ quy định mức tiền phạt  tại điểm b khoản 1 Điều này phù hợp với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được.

Chính phủ quy định cụ thể cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm. 

Phương án 1: [Thay thế cơ chế xác định mức phạt riêng (theo giá trị hàng xâm phạm) bằng cơ chế chung theo pháp luật xử phạt vi phạm hành chính].

Bãi bỏ quy định tại khoản 4 về mức phạt tiền tính theo giá trị hàng hóa xâm phạm (từ 1 đến 5 lần) để thay thế bằng quy định áp dụng mức phạt chung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính (đến 500 triệu đồng), bởi vì:

(i) Cơ chế riêng về mức phạt tính theo giá trị hàng xâm phạm của Luật sở hữu trí tuệ (khác với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng thống nhất đối với hầu hết các lĩnh vực) không còn cần thiết. Quy định này được ban hành là nhằm khắc phục nhược điểm trước đây của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, đó là mức phạt tối đa quá thấp (chỉ đến 100 triệu đồng). Tuy nhiên, đến nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính mới được sửa đổi năm 2008 đã khắc phục nhược điểm này bằng quy định nâng mức phạt tối đa lên 500 triệu đồng, đủ lớn để có tính răn đe, trừng phạt;

(ii) Cơ chế riêng về mức phạt khác với pháp luật về xử phạt hành chính gây bất cập về thẩm quyền phạt. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2008, chỉ có Chánh thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền phạt vượt khung của Pháp lệnh (trên 500 triệu đồng). Điều này không khả thi vì dẫn đến hai thái cực, hoặc những vụ việc như vậy dồn về Trung ương thì Thanh tra các Bộ quá tải, không làm xuể, hoặc các cơ quan khác cố ý phạt ở mức thấp trong thẩm quyền của mình;

(iii) Mức phạt xác định theo giá trị hàng xâm phạm gây nên nghịch lý về tương quan giữa mức phạt và mức độ nghiêm trọng của vi phạm khi giá trị hàng xâm phạm tỷ lệ nghịch với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm:

- Trường hợp giá trị hàng xâm phạm rất thấp do hàng hóa kém chất lượng, không có giá trị sử dụng, thì vi phạm càng nghiêm trọng thì mức phạt  càng thấp, thậm chí mức phạt không đáng kể, không có tác dụng răn đe.

- Trường hợp hàng hóa xâm phạm có giá trị lớn do bản thân hàng hóa có giá cao, chất lượng không thua kém hàng thật (ví dụ máy móc công nghiệp), thì vi phạm càng ít nghiêm trọng thì mức phạt càng lớn, có thể lớn tới mức không khả thi.

(iv) Cơ chế phạt theo giá trị hàng xâm phạm có thể phá vỡ ranh giới và gây nên sự khập khiễng giữa hệ thống pháp luật hành chính – hình sự , vì

- Có trường hợp mức phạt xác định theo giá trị hàng xâm phạm cao gấp nhiều lần so với mức phạt hình sự;

- Khi giá trị hàng xâm phạm là một yếu tố cấu thành tội phạm hoặc một căn cứ xác định khung phạt hình sự (theo dự thảo các điều luật về tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Hình sự sửa đổi),  thì giá trị hàng xâm phạm phải được dùng làm ranh giới giữa pháp luật hành chính và hình sự.

 

 

Phương án 2:

4. Mức phạt, thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được vượt quá mức phạt tối đa theo quy định của pháp luật  về xử phạt vi phạm hành chính thì mức tiền phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và việc xử phạt do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh thanh tra chuyên ngành cấp Bộ thực hiện.

Chính phủ quy định cụ thể cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm và việc áp dụng mức phạt theo giá trị hàng hóa vi phạm.

Phương án 2: [Bổ sung quy định áp dụng cơ chế chung theo pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời giữ cơ chế phạt riêng theo giá trị  hàng xâm phạm để áp dụng trong trường hợp giá trị hàng xâm phạm vượt quá mức phạt tối đa của cơ chế chung và mở rộng thẩm quyền phạt theo cơ chế riêng cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh (bên cạnh Chánh thanh tra Bộ)].

Mức phạt để xử lý đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, một mặt phải thực hiện theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008 với mức phạt tối đa là 500 triệu đồng, mặt khác phải thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, được tính theo giá trị hàng hoá vi phạm khi vượt quá 500 triệu đồng.

Để có thể sử dụng chế tài mạnh trong trường hợp giá trị hàng hoá vi phạm vượt quá 500 triệu đồng, cần phải quy định thẩm quyền phù hợp. Vì vậy, đề nghị sửa lại  khoản 4 Điều 214 theo hướng vừa khẳng  định việc tuân theo pháp luật hiện  hành  về xử phạt hành chính, vừa bổ sung quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ở mức trên 500 triệu đồng cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Chánh thanh tra chuyên ngành cấp Bộ. Đồng thời giao cho Chính phủ quy định cụ thể cách xác định giá trị hàng hóa vi phạm và việc áp dụng mức phạt theo giá trị hàng hóa vi phạm.

Ban soạn thảo đề nghị lựa chọn phương án 2.

30

Điều 216. Biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ

4. Trong quá trình thực hiện biện pháp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, nếu phát hiện hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 của Luật này thì cơ quan hải quan có quyền và có trách nhiệm áp dụng biện pháp hành chính để xử lý theo quy định tại Điều 214 và Điều 215 của Luật này.

 

Điều 216. Biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ

4. Trong quá trình thực hiện biện pháp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, nếu phát hiện hàng hoá nhập khẩu giả mạo về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thuộc các trường hợp  theo quy định tại khoản 1 Điều 211 213 của Luật này thì cơ quan hải quan áp dụng biện pháp hành chính để xử lý theo quy định tại Điều 214 và Điều 215 của Luật này.

Trường hợp phát hiện hàng xuất khẩu là hàng hoá giả mạo về nhãn hiệu theo quy định tại khoản 3 Điều 213 của Luật này thì cơ quan hải quan xử lý hàng hoá đó như đối với hàng nhập khẩu.

Dự thảo đề xuất  sửa đổi biện pháp xử lý hàng hóa xâm phạm bị phát hiện cho phù hợp với các quy định khác:

(i) Đối với hàng nhập khẩu, người nhập khẩu và mọi hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều phải bị xử lý;

(ii) Đối với hàng hóa xuất khẩu, không thể xử lý người xuất khẩu bởi vì hành vi xuất khẩu không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; Mặc dù kiểm soát hàng xuất khẩu là vượt quá yêu cầu của Hiệp định TRIPS, nhưng không nên xóa bỏ bởi vì hàng hóa xuất khẩu là hàng giả mạo nhãn hiệu (và chỉ dẫn địa lý) cần phải xử lý vì những lý do sau đây:

- Cần phải bảo vệ người tiêu dùng (kể cả người tiêu dùng Việt Nam, bởi vì thực tế có nhiều trường hợp hàng giả xuất khẩu lại được nhập vào Việt Nam theo các kênh buôn lậu);

- Ngăn chặn các hoạt động biến Việt Nam thành nước xuất khẩu hàng giả như Trung Quốc hay như chính Việt Nam đã từng bị lên án trong vụ thuốc lá giả nhãn hiệu Malboro được gia công tại Việt Nam;

- Cung cấp thông tin có tác dụng giúp chủ sở hữu bảo vệ quyền của mình (truy tìm nơi sản xuất, và các nguồn cung cấp hàng xâm phạm).

31

Điều 218. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan

2. Thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan là mười ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Trong trường hợp người yêu cầu tạm dừng có lý do chính đáng thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không được quá hai mươi ngày làm việc với điều kiện người yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan phải nộp thêm khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 217 của Luật này.

 

Điều 218. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan

2. Thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan là mười ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan nhận được thông báo của cơ quan hải quan về việc tạm dừng làm thủ tục hải quan. Trong trường hợp người yêu cầu tạm dừng có lý do chính đáng thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng không được quá hai mươi ngày làm việc với điều kiện người yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan phải nộp thêm khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 217 của Luật này.

Sửa mốc tính thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan thành “kể từ ngày người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan nhận được thông báo của cơ quan hải quan về việc tạm dừng làm thủ tục hải quan”  để phù hợp với quy định tại  Điều 55 của Hiệp định TRIPS,  Điều 15.5  của  Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

32

Điều 220. Điều khoản chuyển tiếp

3. Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bằng bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ quy định về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực các văn bằng bảo hộ thì chỉ áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ.

 

Điều 220. Điều khoản chuyển tiếp

3. Mọi quyền và nghĩa vụ theo văn bằng bảo hộ được cấp theo quy định của pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực và các thủ tục duy trì, gia hạn, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp liên quan đến văn bằng bảo hộ đó được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ căn cứ huỷ bỏ hiệu lực các văn bằng bảo hộ thì chỉ áp dụng quy định pháp luật có hiệu lực áp dụng đối với việc xét  tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ đó.

Quy định tại khoản 3 Điều 220 khẳng định nguyên tắc chỉ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nếu văn bằng được cấp trái với quy định pháp luật. Quy định này cũng phù hợp với Hiệp định TRIPS là Bằng độc quyền sáng chế chỉ bị hủy bỏ nếu đáng lẽ không được cấp Bằng đó. 

 Tuy nhiên, lời văn của khoản 3 Điều 220 “quy định về căn cứ huỷ bỏ hiệu lực các văn bằng bảo hộ thì chỉ áp dụng quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ” khiến cho nội dung của quy định không được hiểu đúng. Thực tế, Quyết định của Cục Sở hữu trí tuệ về việc hủy bỏ hiệu lực một Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa được cấp theo điều luật của hệ thống pháp luật cũ nhưng có hiệu lực áp dụng trong giai đoạn chuyển tiếp của Luật Sở hữu trí tuệ, mới đây đã bị Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tuyên vô hiệu.

Vì vậy, cần tu chỉnh lời văn như sau: căn cứ để hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là quy định pháp luật có hiệu lực áp dụng đối với việc cấp văn bằng bảo hộ đó”.

 

 

Quy định tại khoản này cũng được áp dụng đối với các Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa ban hành theo quy định pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực. Cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp tự động cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý đối với các tên gọi xuất xứ hàng hóa đó.

Bổ sung quy định về việc áp dụng tương tự quy định chuyển tiếp dành cho văn bằng bảo hộ cấp theo quy định pháp luật trước đây đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa – đối tượng sở hữu công nghiệp mà quyền được xác lập theo quy định trước đây chỉ có thủ tục đăng bạ mà không cấp văn bằng bảo hộ. Về nguyên tắc, cơ chế bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ được áp dụng cho tất cả các quyền sở hữu trí tuệ được xác lập theo hệ thông pháp luật trước đó. Tuy nhiên, nguyên tắc này mới chỉ được quy định đối với quyền sở hữu công nghiệp được xác lập theo văn bằng bảo hộ (khoản 3 Điều 220), vì vậy, không áp dụng được các quy định về thủ tục liên quan đến văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các tên gọi xuất xứ hàng hóa đang được bảo hộ (sửa đổi phạm vi bảo hộ, tiêu chí đặc thù về chất lượng sản phẩm, khu vực địa lý...).


 

Các văn bản liên quan