Báo cáo thẩm tra dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ

Thứ Sáu 14:07 05-06-2009

QUỐC HỘI KHÓA XII

UỶ BAN PHÁP LUẬT
________

 

Số:  814/BC-UBPL12

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
________________________

 

Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2009

 

BÁO CÁO THẨM TRA

DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU

CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
_________

                       

Kính gửi: các vị đại biểu Quốc hội,

 

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 11 tháng 02 năm 2009, Thường trực Uỷ ban pháp luật đã họp để thẩm tra sơ bộ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ theo Tờ trình số 12/TTr - CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ. Tại phiên họp thứ 17 (2/2009), Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật nói trên. Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Uỷ ban pháp luật và kết luận Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung của dự thảo Luật,  bỏ các quy định bổ sung về giới hạn quyền sở hữu trí tuệ, phí và lệ phí, thẩm quyền giải quyết khiếu nại về sở hữu trí tuệ..., chỉnh lý lại các quy định về chính sách tài chính của Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (Điều 8), các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 26 và Điều 33), thời hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp (Điều 119)...

Để có thêm căn cứ phục vụ việc thẩm tra, Uỷ ban pháp luật đã tổ chức Đoàn khảo sát tình hình thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ tại các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và Cần Thơ.

Ngày 11 tháng 04 năm 2009, Uỷ ban pháp luật đã họp phiên toàn thể để thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ theo Tờ trình số 48/TTr - CP ngày 09 tháng 4 năm 2009 của Chính phủ. Tham dự phiên họp có đại diện Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam và một số cán bộ, chuyên viên của Văn phòng Trung ương Đảng, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Văn phòng Quốc hội. Sau khi nghe đồng chí Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thay mặt Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày dự án Luật, các thành viên Uỷ ban pháp luật và đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan đã thảo luận. Sau đây, Uỷ ban pháp luật xin trình Quốc hội Báo cáo thẩm tra về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ.

I. VỀ QUAN ĐIỂM VÀ PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Cùng với việc Việt Nam ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa phương, song phương về sở hữu trí tuệ (Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật; Công ước Paris năm 1967 về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Công ước UPOV năm 1991 về bảo hộ giống cây trồng mới; Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs); Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ...), năm 2005 đánh dấu bước phát triển quan trọng của pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam với việc Quốc hội thông qua Luật sở hữu trí tuệ và Bộ luật dân sự ( sửa đổi). Các đạo luật này đã tạo cơ sở pháp lý khuyến khích, bảo hộ thành quả lao động sáng tạo của cá nhân, tổ chức và tạo điều kiện để nước ta hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Sau hơn 2 năm thực hiện, các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ đã từng bước đi vào cuộc sống, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của người sáng tạo, người sử dụng và công chúng thụ hưởng, thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật sở hữu trí tuệ cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần sớm được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

Ủy ban pháp luật đánh giá cao cố gắng của Chính phủ và các cơ quan có trách nhiệm trong việc tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, biên soạn dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ và nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Uỷ ban pháp luật để hoàn thiện dự án Luật. Về cơ bản, Ủy ban pháp luật tán thành những quan điểm, nhiều nội dung dự kiến sửa đổi được nêu trong Tờ trình, dự thảo Luật và cho rằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ lần này phải kế thừa các quy định của pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm, bảo đảm phù hợp với các quy định phổ cập của pháp luật quốc tế, có tính đến những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi.

Ủy ban pháp luật tán thành cần nghiên cứu, nội luật hóa những quy định của điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, nội luật hoá như thế nào thì cần được cân nhắc để vừa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, vừa phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu trí tuệ, công chúng thụ hưởng và Nhà nước. Với tinh thần đó, nhiều ý kiến đề nghị, chỉ nội luật hóa các quy định có tính phổ cập và được hầu hết các nước có quan hệ điều ước với Việt Nam thừa nhận.

Từ trình bày trên đây, Uỷ ban pháp luật đề nghị việc sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ lần này cần tập trung vào một số nội dung liên quan trực tiếp đến các cam kết quốc tế đa phương của Việt Nam, những vấn đề thực sự bất cập trong quá trình thực thi Luật và các quy định về kỹ thuật có ảnh hưởng đến nội dung Luật.

II. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHÍNH PHỦ XIN Ý KIẾN

1. Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 27 và Điều 34)

Theo quy định của Luật hiện hành, thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh( Điều 27) và quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng( Điều 34) là 50 năm. Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng dự kiến xác định các thời hạn này là 75 năm.

Qua thảo luận có hai loại ý kiến khác nhau:

Nhiều ý kiến trong Uỷ ban pháp luật tán thành quy định của dự thảo Luật, vì cho rằng việc nâng thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan là cần thiết, một mặt bảo đảm lợi ích của các chủ thể trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích lao động sáng tạo; mặt khác, việc sửa đổi là nhằm tạo sự bình đẳng giữa công dân, tổ chức Việt Nam với công dân, tổ chức các nước có quan hệ điều ước với Việt Nam. Bởi vì, nếu Luật sở hữu trí tuệ quy định thời hạn bảo hộ trong nước là 50 năm mà các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên ( Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA)...) lại quy định thời hạn bảo hộ là 75 năm thì người thiệt thòi trước tiên sẽ là các tác giả và các nhà sản xuất Việt Nam. Mặt khác, mặc dù ký với Hoa Kỳ, nhưng Việt Nam lại là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nên theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc thì các quốc gia thành viên phải đương nhiên dành cho nhau những quyền mà nước đó đã giành cho nước khác; trong trường hợp này là thời hạn bảo hộ 75 năm đối với quyền tác giả.

Các ý kiến khác đề nghị cân nhắc việc sửa đổi thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan từ 50 năm lên 75 năm. Bởi vì, vấn đề này vừa được Quốc hội thảo luận, quyết định vào năm 2005. Hơn nữa, Công ước Berne và một số điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên cũng xác định thời hạn bảo hộ quyền tác giả tối thiểu là 50 năm. Ý kiến này cho rằng, những quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết với các bên có liên quan chỉ ràng buộc song phương, không nên mở rộng diện áp dụng trong quan hệ với các nước khác. Việc kéo dài thời hạn bảo hộ sẽ hạn chế khả năng khai thác giá trị của tác phẩm cho công tác nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và phổ biến rộng rãi tác phẩm trong công chúng. Đồng thời, cũng chưa tính đến sự cân bằng lợi ích giữa tác giả, công chúng thụ hưởng và Nhà nước; nhất là trong điều kiện Nhà nước ta trong nhiều chục năm nay đã đầu tư rất lớn từ ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, cơ sở vật chất cho hoạt động văn học, nghệ thuật ở nước ta.

2. Về thời hạn thẩm định nội dung đơn đăng ký sở hữu công nghiệp (Điều 119)

Khoản 2 Điều 119 của dự thảo Luật dự kiến kéo dài thời hạn thẩm định nội dung đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, cụ thể kéo dài thời hạn thẩm định từ mười hai tháng lên mười tám tháng đối với sáng chế; từ sáu tháng lên chín tháng đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kể từ ngày công bố đơn.

Qua thảo luận, có hai loại ý kiến khác nhau:

Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của dự thảo Luật, vì cho rằng thời hạn thẩm định đơn đăng ký sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cơ sở vật chất - kỹ thuật, nguồn nhân lực, trình tự, thủ tục xử lý đơn...Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhất là trong việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có xu hướng gia tăng. Hiện nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân, tổ chức của Việt Nam mà còn mở rộng đến đối tượng là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Vì vậy, cần điều chỉnh hợp lý các quy định của pháp luật về thời hạn thẩm định đơn để vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, vừa bảo đảm tính khả thi.

Loại ý kiến thứ hai đề nghị không tăng thời hạn thẩm định nội dung đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Để xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp đúng thời hạn, cơ quan đăng ký cần rà soát, cải cách thủ tục hành chính, quy định cụ thể, rõ ràng, công khai trình tự xử lý đơn; đồng thời củng cố về tổ chức, nhân sự và đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền các quy định về đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Qua khảo sát, một số địa phương (Hà Nội, Cần Thơ...) đề nghị cần nghiên cứu, phân cấp thẩm quyền xử lý cho các địa phương; chẳng hạn, việc thẩm định về hình thức để giảm áp lực trong việc xử lý đơn của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ ở trung ương. Việc không tăng thời hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp sẽ làm cho các sáng chế, phát minh sớm được đưa vào áp dụng trong sản xuất, kinh doanh, bảo hộ kịp thời quyền của chủ sở hữu và phù hợp với xu hướng cải cách hành chính cũng như thông lệ quốc tế.

Uỷ ban pháp luật cho rằng, thời hạn xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp tuy là vấn đề thủ tục nhưng có ý nghĩa quan trọng, góp phần quyết định đưa một sáng chế, phát minh vào đời sống kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Vì vậy, cần được giải trình, làm rõ hơn để có giải pháp hợp lý, vừa bảo đảm quyền quản lý của Nhà nước, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

3. Về vai trò của cơ quan, tổ chức nhà nước về sở hữu trí tuệ trong hoạt động giám định sở hữu trí tuệ (Điều 201)

Khoản 2 Điều 201 của dự thảo Luật quy định: “Tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật được thực hiện hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ”.

Uỷ ban pháp luật tán thành cần có cơ chế để thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực vào hoạt động giám định sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; bảo đảm cung cấp ý kiến chuyên môn đúng đắn cho các cơ quan thực thi công quyền, trong đó có cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Toà án, các cơ quan tư pháp khác và công dân. Tuy nhiên, không nên giao cho cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ tham gia hoạt động giám định sở hữu trí tuệ. Bởi vì, làm như vậy sẽ không bảo đảm sự khách quan, độc lập của hoạt động giám định, nhất là trong lúc cơ quan này đang quá tải trong xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Việc giám định về sở hữu trí tuệ phải được coi là một dịch vụ, do vậy cần nghiên cứu để xã hội hoá hoạt động này. Trước mắt, để làm tốt công tác giám định sở hữu trí tuệ, cần nghiên cứu thành lập các trung tâm hoạt động theo quy định của pháp luật về giám định (đơn vị sự nghiệp công lập) để làm nhiệm vụ này; đồng thời, có cơ chế giao cho các hiệp hội nghề nghiệp thực hiện. Vì vậy, Uỷ ban pháp luật đề nghị trong dự án Luật cần quy định rõ những điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhân lực, trình độ chuyên môn... để tổ chức, cá nhân được tiến hành hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ.

III. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ KHÁC

1. Về các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 26 và Điều 33)

Khoản 1 Điều 26 quy định tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả và khoản 1 Điều 33 quy định tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong một số trường hợp không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả...

Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến khác nhau:

Một số ý kiến tán thành với quy định của dự thảo Luật, vì cho rằng việc sửa đổi này là phù hợp với Điều 11bis Công ước Berne mà Việt Nam là thành viên và Nghị quyết số 71/2006/QH11 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO. Quy định này nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan; khuyến khích, động viên các nhà văn, nghệ sĩ, nhà khoa học và mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các hoạt động sáng tạo, sáng tác.

Nhiều ý kiến khác đề nghị cần cân nhắc khi sửa Điều 26 và Điều 33. Bởi vì, theo quy định của dự thảo Luật thì trong mọi trường hợp, tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả theo thoả thuận. Quy định như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền thụ hưởng tác phẩm của số đông công chúng và chưa có sự phân biệt giữa việc sử dụng cho mục đích kinh doanh và mục đích công cộng. Bởi vì, như đã trình bày, thực tiễn cho thấy, trong nhiều chục năm nay, phần lớn các tác phẩm văn học nghệ thuật, ca nhạc, phim ảnh... kể cả nguồn nhân lực sáng tạo ra những tác phẩm này đều được hình thành bởi sự đầu tư, bao cấp của Nhà nước và xã hội. Do đó, cũng cần phải tính đến lợi ích của Nhà nước và cộng đồng xã hội. Đồng thời cần có quy định rõ hơn về vấn đề này. Trong khi đó khoản 2 Điều 11bis Công ước Berne cho phép quốc gia thành viên được quy định điều kiện áp dụng quyền tác giả, bảo đảm không vi phạm quyền tinh thần cũng như quyền được nhận thù lao hợp lý của tác giả. Như vậy, Công ước Berne không bắt buộc như dự kiến sửa đổi của dự thảo Luật. Từ đó loại ý kiến này đề nghị: để cân đối quyền và lợi ích thụ hưởng tác phẩm của công chúng và của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan cần nghiên cứu sửa quy định này theo hướng: Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng vì mục đích thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan theo thoả thuận. Trường hợp phát sóng không vì mục đích thương mại thì việc trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu cần có sự phân loại giữa quyền tác giả, quyền liên quan giữa các tác phẩm có nguồn gốc hình thành khác nhau, trong đó có những tác phẩm được hình thành có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Đồng thời giao Chính phủ quy định cụ thể. Quy định như vậy cũng không mâu thuẫn với Công ước Berne cũng như Nghị quyết số 71/2006/QH11 của Quốc hội mà chỉ là cụ thể hoá thêm.

2. Về chủ sở hữu quyền tác giả là nhà nước (Điều 42)

Điểm a khoản 1 Điều 42 được bổ sung như sau:

“1. Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau đây:

a) Tác phẩm khuyết danh, trong trường hợp do tổ chức, cá nhân đang quản lý thì họ được hưởng quyền của chủ sở hữu. Khi danh tính chủ sở hữu được xác định thì quyền sở hữu thuộc về chủ sở hữu đó, kể từ ngày danh tính chủ sở hữu được xác định...”.

Uỷ ban pháp luật đề nghị cân nhắc, bổ sung quy định này cho chính xác; đồng thời bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với các quy định của Công ước Berne và Bộ luật dân sự. Bởi vì, khi đã quy định Nhà nước là chủ sở hữu mà đồng thời lại quy định tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm khuyết danh được hưởng quyền của chủ sở hữu là mâu thuẫn. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Công ước Berne thì “Đối với những tác phẩm khuyết danh... Nhà xuất bản có tên ghi trên tác phẩm được thừa nhận là đại diện của tác giả mà không cần bằng chứng gì khác. Với tư cách này, Nhà xuất bản được hưởng quyền bảo hộ và thực thi quyền tác giả. Quy định của khoản này sẽ hết hiệu lực khi tác giả tiết lộ danh tính và chứng minh được mình là tác giả”; theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ thì người đã phát hiện vật vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó theo quy định của pháp luật.

3. Về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp (Điều 154)

Khoản 1 Điều 154 quy định một trong những điều kiện để được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp phải là “doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ có tư cách pháp lý độc lập, được thành lập và hoạt động hợp pháp theo pháp luật của Việt Nam”.

Uỷ ban pháp luật đề nghị cân nhắc việc sửa đổi, bổ sung Điều này vì theo quy định hiện hành của Luật sở hữu trí tuệ “doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập và hoạt động hợp pháp” là phù hợp mà không cần thiết phải bổ sung nội dung “có tư cách pháp lý độc lập”. Quy định này sẽ thu hẹp phạm vi các tổ chức được kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp và không thống nhất với Luật luật sư về quyền của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam, chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam.

4. Về cách thức nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng (Điều 165)

Dự thảo Luật quy định: tổ chức, cá nhân được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng tại Việt Nam và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể về đại diện hợp pháp nộp đơn và tổ chức dịch vụ đại diện quyền sở hữu đối với giống cây trồng.

 Ủy ban pháp luật nhận thấy, Luật sở hữu trí tuệ hiện hành đã phân ra hai loại đối tượng là tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài không có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam với hai cách thức nộp đơn khác nhau. Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng quy định chung cả hai đối tượng và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể là chưa thể hiện tinh thần cải cách theo hướng pháp luật phải quy định cụ thể, chi tiết. Vì vậy đây là vấn đề cần được cân nhắc; trong trường hợp cần phải sửa đổi, bổ sung Điều này thì cần quy định rõ điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện quyền sở hữu đối với giống cây trồng tương tự như quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp (Điều 154); đồng thời không giao Chính phủ hướng dẫn về đại diện hợp pháp nộp đơn vì khái niệm đại diện hợp pháp đã được quy định rõ trong Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại ...

5. Về hành vi không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ (điểm b khoản 1 Điều 190)

 Điểm b khoản 1 Điều 190 dự thảo Luật quy định: hành vi sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích nghiên cứu khoa học không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ để phù hợp với khoản 2 Điều 15 của Công ước UPOV 1991.

Uỷ ban pháp luật tán thành với sửa đổi, bổ sung này, nhưng đề nghị cần nghiên cứu, có thể bổ sung “mục đích nhằm lai tạo giống cây khác” cho đầy đủ và toàn diện hơn. Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 15 của Công ước thì hành vi thực hiện nhằm mục đích lai tạo các giống cây khác cũng không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ.

6. Về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả (Điều 214)

- Về điểm a khoản 2 Điều 214

Điểm a khoản 2 Điều 214 của dự thảo Luật quy định: tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng “ Tịch thu hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ...”.

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 214 của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành thì tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chỉ bị tịch thu hàng hoá “giả mạo về sở hữu trí tuệ”. Dự thảo Luật dự kiến sửa “háng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” cũng có thể bị tịch thu là mở rộng đối tượng có thể bị áp dụng hình thức phạt tịch thu. Hơn nữa khái niệm “xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” không rõ, có thể dễ dẫn đến tuỳ tiện trong việc áp dụng pháp luật. Vì vậy, Ủy ban pháp luật đề nghị cần được nghiên cứu, làm rõ thêm.

- Về khoản 4 Điều 214

Dự thảo Luật bổ sung quy định tại khoản 4 như sau:

“4. Mức phạt, thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được vượt quá mức phạt tối đa theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thì mức phạt tiền quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và việc xử phạt do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh thanh tra chuyên ngành cấp Bộ thực hiện. Chính phủ quy định cụ thể cách xác định giá trị hàng hoá vi phạm và việc áp dụng mức phạt theo giá trị hàng hoá.” 

Uỷ ban pháp luật đề nghị đây là vấn đề cần được giải trình làm rõ, vì sao phải có cơ chế riêng về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Bởi vì, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành đã có sự điều chỉnh về mức phạt tối đa đến 500 triệu đồng và về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh cho phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, với cơ chế xử phạt này thì mức phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ vừa được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008, lại vừa được tính theo giá trị hàng hoá vi phạm.

7. Về định giá sản phẩm sở hữu trí tuệ

Trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ không đề cập đến việc định giá sản phẩm sở hữu trí tuệ. Trong quá trình thảo luận, có ý kiến cho rằng việc định giá sản phẩm sở hữu trí tuệ là vấn đề quan trọng, cần được quy định cụ thể trong Luật làm cơ sở cho các giao dịch liên quan đến các sản phẩm sở hữu trí tuệ. Ủy ban pháp luật nhận thấy đây là vấn đề liên quan đến chính sách của Nhà nước đối với sản phẩm sở hữu trí tuệ, phải có thời gian nghiên cứu nghiêm túc, thận trọng nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của chủ sở hữu, Nhà nước và xã hội. Vì vậy, đề nghị trong lần sửa này chưa bổ sung quy định về định giá sản phẩm sở hữu trí tuệ.

*

*           *

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là Báo cáo thẩm tra về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ. Ủy ban pháp luật xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định. 

 

 

Nơi nhận:

- Như trên;

- Lưu HC, PL.

TM. UỶ BAN PHÁP LUẬT

CHỦ NHIỆM

(đã ký)

Nguyễn Văn Thuận

 

Các văn bản liên quan