CLB CHỐNG HÀNG GIẢ & BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Thứ Ba 16:14 15-09-2009

BÁO SÀI GÒN GIẢI PHÓNG

---------------------

CLB CHỐNG HÀNG GIẢ & BẢO VỆ

QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG (SACC)

TP.Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 9 năm 2009

GÓP Ý DỰ THẢO LẦN 4

LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Người trình bày: Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU

Ủy viên Hội đồng Pháp lý CLB Chống hàng giả & Bảo vệ quyền lợi NTD (SACC)

Trưởng Ban Tuyên truyền Hội Luật gia TPHCM


Để Luật Bảo vệ người tiêu dùng (BVNTD) phát huy tác dụng tích cực trong cuộc sống, bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa người sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng, một số vấn đề trong dự thảo Luật lần thứ tư cần được xem xét một cách toàn diện hơn.

Với các thương nhân - tôi cho rằng cần minh bạch hơn về quyền và trách nhiệm. Các thương nhân - người sản xuất, kinh doanh hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đối tượng quan trọng nhất trong việc thực hiện Luật BVNTD. Vì vậy, các quy định của luật cần bảo đảm sự minh bạch đến mức cao nhất về quyền và nghĩa vụ của thương nhân. Với mục đích trên, xin kiến nghị bổ sung, sửa đổi những vấn đề sau:

1. Về đối tượng áp dụng

Khoản 6 Điều 2 quy định: “…Chính phủ quy định cụ thể việc bảo vệ người tiêu dùng trong mối quan hệ với các cá nhân hoạt động thương mại độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Theo tôi không nên để Chính phủ có một quy định riêng về bảo vệ người tiêu dùng đối với đối tượng là tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại độc lập thường xuyên không đăng ký kinh doanh như trên vì: Phần lớn các giao dịch của người tiêu dùng Việt Nam được xác lập với đối tượng là các cá nhân không phải là Thương nhân (tổ chức, cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ, không có đăng ký kinh doanh). Nếu loại trừ đối tượng này sẽ hạn chế thực thi Pháp luật bảo vệ NTD. Hơn nữa, việc loại bỏ đối tượng cá nhân hoạt động thương mại độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh ra khỏi phạm vi áp dụng của Luật sẽ gây khó khăn cho NTD, Tổ chức xã hội của NTD và Cơ quan quản lý Nhà nước khi xử lý những hành vi vi phạm Pháp luật của các đối tượng bị loại bỏ. Trong khi các quy định trong Dự thảo luật hoàn toàn có thể áp dụng cho mọi đối tượng là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kể cả các quy định về trách nhiệm sản phẩm, điều kiện thương mại chung, giải quyết tranh chấp.

2. Về trách nhiệm thông tin cho người tiêu dùng

Đề nghị bổ sung vào Điều 6 về thông tin cho người tiêu dùng, một trách nhiệm quan trọng của thương nhân là: “Cung cấp cho người tiêu dùng các bằng chứng là cơ sở pháp lý về nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ do thương nhân kinh doanh”. Đây là thông tin có ý nghĩa rất quan trọng để người tiêu dùng biết rõ hàng hóa sẽ mua và sử dụng xuất xứ từ đâu, có phải là hàng hóa hợp pháp hay không. Việc cung cấp thông tin trên còn nhằm ngăn chặn những hành vi lừa đảo, bán và cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà thương nhân không hoặc chưa có như việc bán sản phẩm trên giấy, đã và đang xảy ra.

3. Về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng

Điều 4 Nguyên tắc bảo vệ NTD thực chất là quyền của NTD. Do vậy, theo tôi quy định lại cho rõ là tên Điều là “Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng” và bổ sung thêm nghĩa vụ tự bảo vệ Nên quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của NTD, bởi vì: NTD cần phải biết mình có những quyền gì để tự bảo vệ và đề nghị Tổ chức bảo vệ NTD và Cơ quan Nhà nước bảo vệ một khi quyền của mình bị xâm hại. Điều này phù hợp với Pháp lệnh 1999 và Luật của một số nước, phù hợp với yêu cầu nâng cao nhận thức và hiểu biết Pháp luật tiêu dùng của NTD.

Quyền phải kết hợp với nghĩa vụ để NTD thấy rõ trách nhiệm tự bảo vệ mình, bảo vệ cộng đồng và không lạm dụng quyền của mình nhằm mưu cầu lợi ích khi có tranh chấp với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Hơn nữa, NTD chính là đối tượng điều chỉnh của Luật BVNTD. Luật BVNTD cần đặt ra mục tiêu từng bước hình thành những người tiêu dùng văn minh, có đủ kiến thức tự bảo vệ mình. Với mục đích đó, tôi đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật BVNTD quy định về trách nhiệm tự bảo vệ của người tiêu dùng với những nội dung như: người tiêu dùng có trách nhiệm tìm hiểu về chất lượng, xuất xứ, cơ sở pháp lý của hàng hóa, dịch vụ sẽ tiêu dùng; không tiêu dùng những hàng hóa không rõ về cơ sở pháp lý, gây ảnh hưởng tới môi trường sống, có thể nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng....

4. Về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ

Trách nhiệm của Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được quy định rải rác trong Dự thảo luật BVNTD. Tuy nhiên, cần bổ sung thêm một Điều về trách nhiệm bồi thường thiệt hại vào Chương IV của Dự thảo luật nhằm bảo vệ NTD trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ là: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các thiệt hại khác của NTD do việc tiếp nhận, sử dụng hàng hóa, dịch vụ gây ra theo quy định của Luật này và các văn bản Pháp luật khác có liên quan.

5. Về trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng

Điểm c khoản 3 điều 7 dự thảo 4 đã quy định trách nhiệm của bên thứ ba là: “c) Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh được đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của thông tin”.

Quy định như trên là hợp lý. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp thường thông qua hoạt động quảng cáo để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng và đây là cách thức phổ biến hiện nay của các thương nhân. Trong trường hợp này, bên thứ ba là đơn vị kinh doanh dịch vụ quảng cáo, đơn vị phát hành quảng cáo. Vì vậy, cần bổ sung quy định định nghĩa nêu rõ “bên thứ 3” là gồm những cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động truyền đạt thông tin hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng và phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình..

6. Về hành vi ép buộc người tiêu dùng

Khoản 4 điều 9 dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng quy định một hành vi được coi là ép buộc người tiêu dùng và bị cấm đối với các thương nhân là: “Từ chối giao dịch với một hoặc một số người tiêu dùng nhất định trong cùng các điều kiện thương mại mà thương nhân đã thực hiện giao dịch với khách hàng khác, trừ các trường hợp bất khả kháng”. Tôi cho rằng quy định như trên không hợp lý, vi phạm quyền của thương nhân trong mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự và Luật Thương mại.

7. Về hợp đồng theo mẫu

Khoản 4 điều 13 dự thảo Luật BVNTD quy định: “thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trước khi sử dụng.” Theo tôi, quy định nêu trên là không cần thiết và về bản chất là làm phát sinh thêm một “giấy phép con”. Chỉ cần quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng có quyền yêu cầu thương nhân hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng theo mẫu theo đề nghị của người tiêu dùng hoặc trong trường hợp phát hiện quy định trong hợp đồng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng” tại khoản 5 điều 13 là đủ phục vụ cho mục đích bảo vệ người tiêu dùng.

8. Về Trung tâm hòa giải

Công tác quản lý nhà nước nhằm thực hiện Luật BVNTD có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với công tác quản lý về bảo vệ người tiêu dùng, thì cần phải luôn đảm bảo tính khả thi. Tuy nhiên, để công tác quản lý nhà nước có hiệu lực trong thực tế, rất cần đảm bảo tính khả thi cho những quy định trong văn bản luật.

Điều 25 dự thảo Luật BVNTD quy định: “1. Trung tâm hòa giải là tổ chức phi lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. 2. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí hòa giải và các nguồn thu hợp pháp khác”.

Với quy định như trên, thì “trung tâm hòa giải” là loại hình tổ chức gì? Hoạt động hòa giải rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu và rộng, song Trung tâm hòa giải lại là một tổ chức phi lợi nhuận, không được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, phải tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí hòa giải thì liệu Trung tâm hòa giải có tồn tại được hay không? Dự thảo chưa đưa ra được những biện pháp gì để đề phòng ngăn chặn hiện tượng hoạt động thu lợi nhuận núp dưới danh nghĩa một tổ chức “phi lợi nhuận” của Trung tâm hòa giải.

Từ đó, tôi cho rằng nên quy định mổ rộng giao việc hòa giải giữa thương nhân và người tiêu dùng khi có tranh chấp cho Trọng tài kinh tế, các văn phòng luật sư, các công ty tư vấn luật để thủ tục thuận lợi và người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận.

9. Về thủ tục hòa giải

Khoản 4 điều 28 dự thảo Luật BVNTD quy định: “4. Các bên tranh chấp có quyền rút khỏi quá trình hòa giải tại bất kỳ thời điểm nào sau khi đã có thông báo bằng văn bản cho Trung tâm hòa giải và bên kia”.

Theo tôi, quy định như trên không hợp lý có thể dẫn đến sự tùy tiện trong việc khiếu kiện của người tiêu dùng. Hơn nữa, rất có thể từ quy định “quá thoáng” này, hành vi khiếu kiện nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện, gây rắc rối cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của thương nhân bị khiếu kiện trong một thời gian nhất định sau đó sẽ rút khỏi quá trình hòa giải.

10. Về thẩm quyền của cơ quan buộc thi hành biên bản hòa giải thành.

Khoản 2 Điều 30 dự thảo Luật BVNTD quy định: “2. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành các nghĩa vụ theo biên bản hòa giải thành thì bên kia có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại điều 31 của luật này ra quyết định buộc thi hành

Điều 31 quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của bên có nghĩa vụ thi hành có thẩm quyền buộc thi hành bản án hòa giải thành

Và khoản 2 điều 33 dự thảo Luật BVNTD quy định: “2. Trong trường hợp bên phải thi hành nghĩa vụ không thực hiện quyết định của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương thì cơ quan bảo vệ người tiêu dùng có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 3 điều này”.

Nếu thực hiện theo những quy định đó, Trung tâm hòa giải đã làm thay công việc của tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Như vậy liệu có khả thi hay không khi Trung tâm hòa giải không phải là cơ quan quyền lực nhà nước. Tôi cho rằng để cần có quy định phối hợp với tòa án thực hiện để đảm bảo giá trị pháp lý cho biên bản hòa giải thành.

11. Về trách nhiệm của người tiêu dùng trong vụ án dân sự

Khoản 1 điều 44 dự thảo 4 quy định: “1.Trong vụ án dân sự về bảo vệ người tiêu dùng, người tiêu dùng và tổ chức bảo vệ người tiêu dùng không phải đưa ra chứng cứ để chứng minh lỗi của thương nhân”. Theo tôi, quy định nêu trên không hợp lý, đã bảo vệ quá mức cần thiết đối với người tiêu dùng và có thể bị lợi dụng để xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ.

12. Về cơ quan bảo vệ người tiêu dùng

Khoản 1 điều 54 dự thảo Luật BVNTD quy định: “Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng”. Thiết nghĩ, luật cần làm rõ đây là cơ quan nào? Sẽ thành lập mới hay bổ sung chức năng cho các cơ quan hiện nay?

Khoản 2 điều 61 quy định: “2. Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng được thành lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật” và khoản 3 quy định: “3. Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoạt động phi lợi nhuận và không nhận tài trợ, hỗ trợ tài chính trực tiếp từ các thương nhân”.

Tương tự như Trung tâm hòa giải, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng sẽ được thành lập và hoạt động theo luật nào? Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động được lấy từ đâu? Đó là vấn đề rất quan trọng cần quy định rõ ràng để tổ chức bảo vệ người tiêu dùng có thể hoạt động được. Theo tôi, cần nhìn nhận hoạt động của Tổ chức Bảo vệ người tiêu dùng là hoạt động độc lập, có khả năng vận động tài chính. Thực tế cho thấy nếu các tổ chức này không có năng lực tài chính thì không thể hoạt động hiệu quả được. Vấn đề tiếp nhận tài trợ cũng là điều cần thiết nếu phù hợp các quy định pháp luật.

13.Về “Thủ tục xét xử rút gọn”

Điều 46 quy định “Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thụ lý vụ án. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân cấp huyện phải phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án và tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án và lịch xét xử cho bị đơn. Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân cấp huyện phải mở phiên tòa xét xử công khai theo các quy định về phiên tòa sơ thẩm của pháp luật về tố tụng dân sự...”. Theo chúng tôi thì để thực hiện được việc này thì rất tốt, song với tình hình thực tế tại Việt Nam dường như chưa khả thi. Không biết Ban Soạn thảo Dự luật đã có nghiên cứu khảo sát kỹ về vấn đề này chưa?. Như đã nói bên trên, chúng tôi mong rằng có một chế phối hợp giữa Tổ chức Bảo vệ người tiêu dùng và tòa án.

Cuối cùng, xét về mặt tổng thể thì Dự thảo Luật lần này có một số điểm mới (như Quỹ Bảo vệ người tiêu dùng, Thủ tục xét xử rút gọn, Phân định thêm quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quá trình bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...). Song vẫn còn khá nhiều điều cần phải làm rõ hơn, cụ thể hơn và mang ý nghĩa thực tiễn nhiều hơn.

Trên đây là một số ý kiến của tôi về nội dung của Dự thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng. Hy vọng rằng những ý kiến này sẽ góp phần giúp cho dự thảo thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng có chất lượng cao nhất.

Trân trọng kính chào.

Các văn bản liên quan