Góp ý Dự thảo Thông tư Kiểm tra hải quan

Thứ Sáu 14:51 16-05-2008


                           GÓP Ý DỰ THẢO
                THÔNG TƯ ­ KIỂM TRA HQ 
 
                ( Bài  phát biểu tại hội thảo do VCCI và Bộ Tài chính
                   tổ chức ngày 16-5-2008 tại số 7.Phan Huy ChúHN)
 
                                                                 Trần Nguyên Chẩn


  
       Tr­ước hết cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới ban tổ chúc đã có nhã ý mời tôi tham gia vào  hội thảo này. Do Viet nam đã là thành viên của WTO. Của WCO…đã tham gia ký kết nhiều công   uoc quốc tế như ­ công uoc HS( công uoc  về một ngôn ngữ chung toàn cầu về hàng hoá) công uoc Kyoto) công uoc về hài hoà các thủ tục Hải quan…tất cả các công uoc  đều quy định rằng các  bên tham gia phải đ­ưa những nội dung của công uoc vào nội luật ,do đó việc tìm ra những điều của dự thảo  thông t­ư  trái với  những điều Việt nam đã cam kết quốc tế là cần thiết.
Sau đây là bản góp ý của tôi: 
 

A, phần chung
 

Bản dự thảo quá dài, có tham vọng nh­ư  một tuyển tập các văn bản pháp quy về Hải quan. Theo tôi nên làm những thông t­ư  hư­ớng dẫn trong phạm vi hẹp của một luật nào đó.Sau khi hoàn thành các thông t­ư  h­ướng dẫn của các luật( và các Nghị định có liên quan), việc tổng hợp lại là thuộc phạm vi của cơ quan pháp chế của cơ quan chủ quản.Không nên có tham vọng quá lớn, rát khó theo rõi ,ch­ưa kể là ở đây có những văn bản luật pháp vừa ban hành xong đã phát hiện sai cơ bản nh­ Luật Quản lý thuế chẳng hạn[a].Điểm nữa là tất  cả các khái niệm trong một văn bản phải thể hiện nhất quán ở mọi  chỗ , không nên dùng  mỗi chỗ một khác. [1] 
 

B. Góp ý cụ thể: 
                                             
Phần II, chư­ơng IHư­ớng dẫn chung về thủ tục Hải quan,quản lý thuế


 
I.  Hàng hoáxuất khẩu, nhập khẩu thư­ơng mại  quy định tại mục I,
 Chư­ơng II, Nghị định 154CP-ND
 
Phần này tác giả đã bệ nguyên xi điều 1, mục 1 Phần B của Thông t­ 112/2005/TT-BTC ngày 15-12-2005 mà không làm rõ thêm một tý gì.Trong lư­u thông hàng hoá trên phạm vi toàn cầu,  tự điển thuật ngữ của WCO( Tổ chức Hải quan thế giới) đã giải thích rất  rõ:
 
a-“Xuất khẩu    (exportation) là hành động mang  một mặt hàng bất kỳ ra khỏi lãnh thổ Hải
quan” [2]
 
b-Tái xuất khẩu ( re-exportation) là đem  trả lại vào lãnh thổ Hải quan cũ   mặt hàng tr­ước đây đã bị đ­ưa ra từ lãnh thổ hải quan đó[2]
 
c-“Nhập khẩu (  importation) là hành động đ­ưa vào một mặt hàng bất kỳ vào lãnh thổ Hải quan[2]
 
d-tái  nhập  (re-importation)là đ­ưa trả lại vào lãnh thổ Hải quan mặt hàng tr­ước đây đã đư­a ra khỏi vùng lãnh thổ đó.” [2]
 
e-“Tạm nhập  trong cùng trạng thái(Reimportation in the same state) là thủ tục Hải quan mà ở đó hàng hoá  xuất  khẩu đư­ợc phép l­ưu thông tự do hoặc đư­ợc sử dụng trong gia đình  ,đ­ược miễn các loại thuế và lệ phí, với điều kiện nó không bị chế tạo thêm,chế biến thêm hoặc sửa chữa ở n­ước ngoài” [2]
 
Hàng hoá tái nhập trong cùng trạng thái đã đư­ợc sử lý trong phụ lục 3 của công uoc Kyoto. [2]
 
Như­ vậy, hàng hoá tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập có một số đặc điểm sau:
 
1    -trong quá trình tạm nhập và tái xuất hoặc tạm xuất và tái nhập. Hàng hoá phải là của riêng một chủ sở hữu, nó không đ­ược phép đổi chủ trong quá trình này
 
2    -về không gian,trạng thái  hàng hoá tạm nhập và trạng thái tái xuất  đã ở hai lãnh thổ Hải quan khác nhau.
 
3    -Việc tái xuất ,tái nhập  nh­ư  vậy không có yếu tố sinh lời.
 
4    -Bao bì, bình chứa( của hàng hoá tạm nhập để tái xuất hoặc tạm xuất để tái nhập ) không đ­ược thay đổi, sửa chữa.
 
e-“ Quá cảnh Hải quan(Customs transit) là thủ tục Hải quan mà ở đó hàng hoá đ­ược vận chuyển  dư­ới sự kiểm tra củaHải quan từ trụ sở Hải quan này tới trụ sở Hải quan khác”
 
Nh­ư  vậy, chúng ta có thể làm rõ điều 1 này chỉ có các loại hàng hoá sau đây:
 
Hàng hoá nhập khẩu,Hàng hoá xuất khẩu,ứng với khoản 1,điều 1 của mục 1 phần B
 
Hàng xuất khẩu, nhập khẩu đư­ợc h­ưởng chế độ ­ưu đãi( ứng với các khoản 4,5,6và 9 điều
1,mục 1,phần 2)
 
 Hàng hoá là tài sản di chuyển( Chưa có trong dự thảo)
Sắp tới, khối lượng Việt kiều hồi hương có thể sẽ rất lớn,cả các nhân viên sứ quán, các lưu học sinh…Sau nhiều năm công tác, học tập và sinh sống ở nước ngoài  đương nhiên họ có một số tài sản cần mang  về nước và cũng được hưởng chế độ ưu đãi.
 
Hàng hoá liên quan tới sở hữu trí tuệ( Khoản này dự thảo hình như đã quên)
 
Hàng hoá tạm nhập –tái xuất,Hàng hoá tạm xuất-tái nhập , ứng với khoản 2,khoản 11,khoản 12,khoản 10 điều 1,mục 1, phần 2
 
     Hàng hoá quá cảnh Hai quan,ứng với khoản 3,khoản 11 điều 1, mục 1,phần 2
(Hàng hoá có những chế độ tương tự sẽ có những thủ tục Hải quan gần giống nhau, do đó nên xếp gần nhau )
 


 khoản 2 điều 1 ,chương I,phần II về một loại “Hàng hoá kinh doanh theo phư­ơng thức tạm nhập tái xuất” là không có trên thế giới được bộ Thương mại Việt nam đơn phương ban hành và  áp dụng trong Trư­ờng hợp kinh doanh tạm nhập tái xuất xăng dầu.Tương tự như vậy, tập quán quốc tế không tồn tại khái niệm “ Xuất khẩu tại chõ và khái niệm nhập khẩu tại chỗ.”   Đề nghị không nên sáng tạo ra những khái niệm mới ,khác với thế giới mà chúng ta đang hội nhập.


        Tại sân bay Tân sơn nhất , hoặc cảng Sài gòn, hoặc sân bayNội bài, theo quyết định số 1752/2003/QD-BTM  ngày 15-12-2003, một số doanh nghiệp độc quyền đ­ược phép buôn bán xăng dầu xuyên quốc tế  với siêu lợi nhuận mà đã không phải nộp thuế Xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu .Với số l­ượng xăng dầu  nhập khẩu vô cùng lớn, họ tích luỹ vào các bồn xăng đặc chủng của kho xăng có ở các cảng,rồi bán cho các máy bay nư­ớc ngoài và tàu thuyền n­ước ngoài  đang neo đậu tại đó để thu ngoại tệ  và gọi hành vi đó là tái  xuất khẩu tại chỗ!  Hồi năm 1994 tôi đư­ợc giao đi kiểm tra việc xuất nhập khảu xăng dầu tại các tỉnh phía nam , đ­ược biết, các trạm xăng Nhà n­ước  hoàn toàn ế ẩm, đã không thể kinh doanh xăng dầu vì xăng dầu lậu tràn lan, giá lại rẻ hơn nhiều  so với giá bán tại các tram xăng của các doanh nghiệp thông thường. Sau chuyến kiểm tra, tôi đã viết báo cáo lãnh đạo TCHQ về  những thiệt hại to lớn cho nhà n­ước, như­ng sự việc trên đã không đư­ợc sử lý triệt để và đã tồn tại đến ngày nay. Hậu quả là cách đây mấy năm nhà nước đã nghiêm trị một cán bộ tham gia tạm nhập tái xuất xăng dầu,Tôi cũng không thể giải thích nổi là làm sao lãnh đạo Bộ thư­ơng mại vẫn than phiền về việc thiệt hại  và thua lỗ trong việc kinh doanh xăng dầu có một không hai này!
Tôi đề nghị Bộ Thư­ơng mại và chính phủ xem xét lại quyết định 1752/2003 nêu trên vì nó tráI với thông lệ quốc tế , tự nhiên mở rộng cửa khẩu quốc gia để  một ngành được hưởng lợi, còn nhà nước thì thua thiệt.
 
Chuyển khẩu không phải là một hình thức “kinh doanh xuất nhập khẩu”, vì bản chất của hoạt đông này là hoạt động quá cảnh, hàng hoá chư­a đ­ược đ­ưa ra khỏi lãnh thổ Hải quan,do đó đưa nó vào khoản 3,điều I,chương I,phần II là sai. 

  Về điểm II: Phân loại Hàng hoá
Phân loại hàng hoá là việc xác định đúng tên của nhóm hàng, tên của phân nhóm hàng và tên hàng theo biểu thuế. Cái mà chúng ta quen gọi là mã số hàng hoá trong biểu thuế đơn giản là phư­ơng pháp đánh số thứ tự đặc biệtcủa công uoc HS mà thôi.Mã số chỉ là một dãy số vô tri vô giác, không nói lên đ­ược cái gì cả, chỉ có thuật ngữ mô tả chính xác tên nhóm, tên phân nhóm và tên hàng  mới thể hiện đ­ợc những thuộc tính của hàng hoá,vì chỉ có chúng mới cho ta áp dụng 6 quy tắc của HS để phân loại nhằm xác định tên gọi  với các thuộc tính chung, thuộc tính cơ bản và thuộc tính riêng của tong mặt hàng.Thông thường khi khởi tố vụ án Viện kiểm sát thường khởi tố vụ án với một tội danh rõ ràng được ghi trong luật , chứ không bao giờ khởi tố với mã số của luật, toà án khi tuyên án cũng vậy, tuyên án theo tội danh được ghi rõ trong bộ luật, chứ không tuyên án theo mã số của luật. Do đó, theo quy định của công ước HS, các doanh nghiệp khi gửi mẫu hàng đi giám định hay đi phân tích phân loại, kết quả trả lời không thể là chung chung về mã số hàng hoá, mà phải trả lời chính xác cho doanh nghiệp: Mẫu hàng  có tên  nhóm như thế nào trong biểu thuế và thuộc phân nhóm nào trong nhóm hàng đó. Ngay thuật ngữ “Loại khác” trong biểu thuế không có nghĩa là không có tên, mà nó có tên cụ thể nhưng biểu thuế không nêu ra thôi  vì sẽ quá dài.Kết quả phân tích phân loại của Cơ quan Hải quan phải trả lời cho doanh nghiệp  những vấn đề này.[3] 
  

Về điều IV: Khai Hải quan
 
IV. 2 uỷ quyền khai Hải quan:
A, Ngư­ời đ­ược uỷ quyền khai Hải quan


Ngay từ năm 2005 khi Nghị định về   “Đại lý Hải quan”đ­ư ợc ban hành, tôi đã phat hiện ra sự nhầm lẫn về khái niệm của Đại lý Hải quan và đã có hai bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp của VP Quốc hội  và Đới sống& pháp luật của hội luật gia Việt nam.Trong khi Luật Hải quan chư­a sửa, đề nghi đừng đ­ưa khái niệm “Đại  lý Hải quan” vào điều này,  vì quy định và hiểu như vậy là hoàn toàn trái với thông lệ quốc tế,mà tạm thời vẫn dùng  khái niệm khai thuê Hải quan theo đúng bản chất của vấn đề.[4]
 

Phần II: 
Thủ tục Hải quan, Kiểm tra Hải quan, quản lý thuế  đối với hàng hoá xuất khẩu ,nhập khẩu thương mại 
  
IX.Ấn định thuế:[5]


  
    Tôi cho là đây là một khái niệm không đúng mà là “ký xác nhận độ chính xác  kết quả tính thuế   của cấpthuộc quyền sau khi đã đích thân kiểm tra ”.Cuốn tự điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ biên soạn giải thích khái niệm “ấn định” nh­ư  sau:  “Định ra một cách chính thức để mọi ng­ười theo đó mà thực hiện:nh­ư  ấn định nhiệm vụ, ấn định sách lư ­ợc…” Việc chi cục tr­ưởng Hải quan cửa khẩu hay cục tr­ư ởng Hải quan tỉnh thành phố,cục tr­ư ởng cục Điều tra chống buôn lậu, cục tr­ưởng cục kiểm tra sau thông quan  ký xác nhận  kết quả tính thuế của cấp thuộc quyền không phải là “ định ra số tiền  thu thuế một cách chính thức để doanh nghiệp cứ thế mà nộp”!5] 
  
                                                

  Phần VI:
             Kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế[4]


  
      Cuốn từ điển tiếng Việt giải thích thanh tra :  “kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địaphương”.Nếu như vậy tiêu đề trên là thừa .Thanh tra và kiểm tra sau thông quan có cùng nghĩa! Kiểm tra công khai, Điều tra chông buôn lậu, Kiểm tra sau thông quan( Hay Audit) là 3 biện pháp nghiệp vụ cơ bản của Hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thành 3 binh chủng hợp thành của ngành Hải quan ,mà mỗi binh chủng có chức năng và nhiệm vụ riêng của nó, vừa hỗ trợ nhau, bổ xung cho nhau đồng thời là đối trọng để kiểm tra lẫn nhau , chứ không được phép thay nhau!Trong khi Điều tra chông buon lậu có chức năng và nhiệm vụ điều tra để phát hiện những đường dây buôn lậu, tức những kẻ trốn tránh sự kiểm tra công khai của Hải quan tại cửa khẩu, thì kiểm tra sau thông quan - thực chất nó là đơn vị   “kiểm toán” mà tiếng Anh gọi  là Audit-giống như Kiểm toán Nhà nước vậy,có nhiệm vụ kiểm tra  lại  hồ sơ các lô hàng đã tham gia xuất khẩu hoặc nhập khẩu nhằm phát hiện những gian lận thương mại mà đơn vị kiểm tra công khai trước đó chưa phát hiện được.Chỉ khi nào nhận thức rõ ràng như trên thì diễn giải phần VI của thông tư mới thông thoáng và rõ ràng được.Điểm 4 của bản gợi ý  muốn  tăng tỷ lệ miễn kiểm tra công khai đồng thời tăng tỷ lệ kiểm tra sau thông quan  là không phù hợp,chứng tỏ không hiểu  chức năng khác nhau của các  đơn vị này.Kiểm tra công khai là quyền thiêng liêng  mà chỉ ngành Hải quan mới có, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cho nên không bao giờ người ta nói về “miễn kiểm tra Hải quan” mà chỉ nói rằng tạm thời  không  kiểm tra Hải quan mà thôi.
 
C.Kết
Bản dự thảo này đã được viết rất hoành tráng, cả trên trăm trang, xem ra rất bài bản ,nhưng đã phạm những sai lầm về những khái niệm cơ bản liên quan tới nghiệp vụ Hải quan .Vì lợi ích chung của nước nhà, tôi xin có một số đóng góp để các đồng chí tham khảo.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm của các quý vị đại biểu.
 
 
Tài liệu tham khảo:
[1] TCHQ: Dự thảo TTHD Thủ tục Kiểm tra HảI quan
[2] WCO-Tổ chức HQ thế giới:Glossary ò international customs term-1995
[3]Trần Nguyên Chẩn,tạp chí KTĐN số 1.2002: Tham gia công ước HS, bước hội nhập..
[4] Trần Nguyên Chẩn:tạp chí NCLP:Đại lý HảI quan và sự nhầm lẫn về kháI niệm trong luật HảI quan
[5]Viện Ngôn ngữ: Từ điển tiếng Việt
[a] Trần Nguyên Chẩn: Tìm hiểu luật Quản lý thuế
 
 
 
 

Các văn bản liên quan