Nhận xét chung và 26 góp ý cụ thể – Luật gia Vũ Xuân Tiền – VFAM

Thứ Sáu 15:24 28-03-2008

MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP Ý DỰ THẢO
LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT (SỬA ĐỔI)

( Dự thảo ngày 27/02/2008)
------------------------------ 


Luật gia Vũ Xuân Tiền
Tổng giám đốc
Công ty cổ phần tư vấn quản lý và đào tạo VFAM Việt Nam

I-                  Nhận xét chung

Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và đưa chúng vào cuộc sống là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quản lý, điều hành đất nước nói chung, quản lý nền kinh tế quốc dân nói riêng. Văn bản quy phạm pháp luật là công cụ để quản lý kinh tế, xã hội của một quốc gia. Vì vậy, những quy định về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là biểu hiện rõ nhất để trả lời câu hỏi: Nhà nước ấy là của ai, do ai và vì ai?

Xuất phát từ thực tiễn về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta trong thời gian vừa qua và những đòi hỏi khách quan của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, có thể thấy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta trong thời gian tới phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau đây:

1.      Khắc phục triệt để tình trạng luật “khung”, luật “ống” để Luật nhanh chóng đi vào cuộc sống. Điều đó có nghĩa là, luật, pháp lệnh phải chi tiết, cụ thể hơn, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải có những văn bản hướng dẫn dưới luật.
2.     Bảo đảm đến mức cao nhất sự khách quan của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Yêu cầu này có nghĩa là, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải và chỉ phục vụ cho lợi ích của đất nước, của nhân dân; phát hiện và ngăn chặn ngay từ trong “trứng nước” ý đồ đưa vào văn bản quy phạm pháp luật những nội dung phục vụ lợi ích cục bộ của một Bộ, ngành hoặc phục vụ cho lợi ích của một nhóm quyền lực.
3.     Từng bước tiến tới sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa  cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
4.     Hình thành một cơ chế thuận lợi nhất để văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đến được với toàn dân, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp.

Nghiên cứu toàn văn Dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (bản dự thảo ngày 27/02/2008, chúng tôi thấy, nội dung của Dự thảo luật chưa đáp ứng được những yêu cầu cơ bản nêu trên.

Điều đó thể hiện ở những điểm sau trong Dự thảo Luật:

1.      Nguyên tắc luật “khung”, luật “ống” vẫn được duy trì. Ngoài văn bản luật, pháp lệnh còn có quá nhiều văn bản dưới luật. Trong điều kiện luật là luật “khung”, luật “ống”, điều đó chắc chắn dẫn đến tình trạng phổ biến là luật “treo” vì luật chỉ có thể đi vào cuộc sống khi có những văn bản hướng dẫn dưới luật. Song, việc ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật lại là nhiệm vụ của cơ quan hành pháp. Về nguyên tắc, các cơ quan hành pháp phải ban hành kịp thời những văn bản hướng dẫn dưới luật. Song, trên thực tế những năm vừa qua không phải như vậy. Tình trạng các văn bản hướng dẫn dưới luật chậm ban hành từ 6 tháng đến 1-2 năm là chuyện không có gì lạ ở nước ta. Và cũng chẳng có một công chức, quan chức nào bị kỷ luật, buộc thôi việc vì...chậm ban hành văn bản hướng dẫn dưới luật. Nguy hiểm hơn, không ít trường hợp đã có những “sáng tạo” trong Thông tư hướng dẫn nhằm sản sinh ra các Giấy phép con; sử dụng công văn như một văn bản dưới luật để điều chỉnh hành vi của cộng đồng, để sử dụng trong các phiên toà của Toà án nhân dân....

2.      Tính khách quan trong việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật chưa được tôn trọng. Điều đó thể hiện ở chỗ, cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật lại vẫn chính là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó. Mặc dù có quy định hình thành một Ban soạn thảo với rất nhiều thành phần như hiện nay, nhưng với hàng nghìn mối quan hệ phức tạp, đan xen lẫn nhau, với những hành vi Lobby hữu hiệu, việc quy định cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật chính là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó thực chất là tái diễn tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Hiện tượng nâng cao quyền lực của Bộ, ngành mình, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý, đẩy khó khăn về phía nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp như đã xẩy ra sẽ không được khắc phục.

3.      Trong quy trình soạn thảo và thẩm tra các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan lập pháp phụ thuộc quá lớn vào cơ quan hành pháp; vai trò của các tổ chức phi chính phủ, các hội, hiệp hội đại diện cho nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp còn rất mờ nhạt.

Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng, cần thay đổi một cách cơ bản từ cách hiểu về văn bản quy phạm pháp luật đến toàn bộ quy trình từ lập dự án xây dựng, soạn thảo, thẩm tra và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng:

-         Văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân. Trong khi đó, Quốc hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân, do đó, chỉ có Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội mới là cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả những văn bản hướng dẫn thi hành.
-         Chính phủ là cơ quan hành pháp, cơ quan thực hiện quyền “cai trị”. Vì vậy, Chính phủ có quyền tham gia ý kiến vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội; góp ý vào các dự thảo văn bản nhưng không được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.

Chỉ khi thay đổi được theo hướng đó chúng ta mới hy vọng có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật “của dân, do dân và vì dân”. Với sự thay đổi như trên, Quốc hội sẽ phải giải quyết nhiều vấn đề hơn. Để khắc phục những khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải, số lượng các đại biểu quốc hội chuyên trách phải tăng lên với trình độ cao hơn. Đồng thời, rất cần có phương thức “đấu thầu dự án xây dựng văn bản quy phạm pháp luật” để tiến tới xã hội hoá công việc quan trọng này.

Tuy nhiên, trong điều kiện của nước ta hiện nay, ranh giới giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp rất mờ nhạt. Phần lớn đại biểu Quốc hội – cơ quan lập pháp – lại là quan chức của cơ quan hành pháp. Những vị đại biểu này, mỗi năm có khoảng 3 tháng tham dự hai kỳ họp Quốc hội để thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan lập pháp - đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân, thời gian còn lại họ làm việc ở cơ quan hành pháp – người thực thi quyền lực của bộ máy “cai trị”. Vì vậy, sự thay đổi về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đã nêu ở trên chỉ là “ước mơ xa”. Từ đó, đề xuất nêu trên chỉ là để tham khảo, chắc chắn rằng, dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đưa ra trao đổi hôm nay sẽ được đưa ra trình Quốc hội và sẽ được thông qua.

II-              Những góp ý cụ thể cho dự thảo

Mong muốn có một sự cải cách triệt để hơn, nhưng điều đó là không tưởng trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Vì vậy, với bản dự thảo đã có xin nêu 26 ý kiến góp ý cụ thể sau đây:

1. Thế nào là văn bản quy phạm pháp luật

Khoản 1 Điều 1 dự thảo luật quy định: “ Văn bản quy phạm pháp luật  là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật....”
Xin đề nghị sửa lại như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật  là văn bản do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc một số cơ quan quản lý Nhà nước được Uỷ ban thường vụ Quốc hội uỷ quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật....”.

2. Về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Điều 2 của dự thảo quy định 12 loại văn bản được coi là văn bản quy phạm pháp luật. Chúng tôi cho rằng, đó là hệ thống quá nhiều văn bản, phân tán ở quá nhiều cấp quản lý. Xin kiến nghị, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chỉ nên có:
1. Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành;
2. Pháp lệnh, nghị quyết do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành;
3. Lệnh, quyết định do Chủ tịch nước ban hành;
4. Nghị định do Chính phủ ban hành;
5. Nghị quyết do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành,    
6. Quyết định do Tổng kiểm toán nhà nước ban hành;
7. Nghị quyết liên tịch do Uỷ ban thường vụ hoặc Chính phủ phối hợp với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội ban hành;
8. Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định.
Như vậy, trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sẽ bỏ đi:
1. Quyết định do Thủ tướng Chính phủ ban hành;
2. Thông tư do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ban hành;
3. Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành;
4. Thông tư liên tịch do Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành;
Tất nhiên, việc loại trừ nêu trên không bao gồm những văn bản tương tự nhưng chỉ có ý nghĩa trong quản lý nội bộ, thí dụ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Chánh án Toà án Nhân dân tối cao... về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ thuộc quyền, v.v...

3.Về các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Điều 3 của dự thảo nêu các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:
1. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật;
2. Tuân thủ thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
3. Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật;
4. Bảo đảm tính khả thi của văn bản;
5. Phù hợp với điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Xin kiến nghị:
 - Bổ sung thêm nguyên tắc: 6. Bảo đảm tính khách quan vì lợi ích của đất nước và nhân dân”.
- Bổ sung thêm một điều khoản “Đánh giá tính khả thi của văn bản”.

4. Về tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Khoản 3, điều 4 dự thảo quy định: 3. “ý kiến tham gia về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo”. Đề nghị quy định rõ trách nhiệm, trình tự, thủ tục của việc nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến tham gia về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật  nhằm ngăn chặn tình trạng xin ý kiến tham gia vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chỉ là hình thức như nhiều trường hợp hiện nay.

5. Về văn bản quy định chi tiết

Điều 8 Dự thảo quy định:
1. Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi văn bản đó có hiệu lực thì thi hành được ngay.
2. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có điều, khoản cần phải được quy định chi tiết bằng văn bản khác, thì ngay tại điều, khoản đó phải xác định rõ tên cơ quan ban hành, nội dung cần quy định cụ thể.
3. Văn bản quy định chi tiết phải do cơ quan có thẩm quyền được quy định trong văn bản được quy định chi tiết trực tiếp ban hành, không được uỷ quyền tiếp và phải quy định cụ thể, trực tiếp vào điều, khoản cần được quy định chi tiết, không lặp lại điều, khoản, nội dung của văn bản được quy định chi tiết.
4. Văn bản quy định chi tiết phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản cần được quy định chi tiết. 

Quy định như trên là tiến bộ, khắc phục tình trạng “luật treo” như hiện nay. Song, vấn đề được đặt ra là: Vì sao không quy định chi tiết ngay trong văn bản luật, pháp lệnh? Nếu những quy định trong Điều 8 của dự thảo Luật thực hiện được thì việc quy định chi tiết ngay trong văn bản luật, pháp lệnh cũng có thể thực hiện được. Tất nhiên, nếu quy định chi tiết trong văn bản luật thì văn bản luật sẽ rất dài, các đại biểu Quốc hội sẽ phải làm việc nhiều hơn. Song, điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu thực hiện luật.Người có trách nhiệm thực hiện luật, đọc một văn bản luật 100 trang vẫn “sung sướng” hơn là đọc một văn bản luật 20 trang và một hoặc nhiều văn bản hướng dẫn với 80 trang còn lại. Việc quy định chi tiết ngay trong văn bản luật còn có ý nghĩa quan trọng hơn là ngăn chặn tình trạng sửa đổi, bổ sung một cách tuỳ tiện nhằm những mục đích thiếu minh bạch.

6. Về Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật

Điều 9 của dự thảo quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Những quy định tại dự thảo là hợp lý, cần thiết. Đề nghị bổ sung thêm hai quy định:

1.“ Các văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung 01 lần. Trường hợp phải sửa đổi, bổ sung đến lần thứ hai, phải trình một văn bản mới thay thế”.
Quy định trên nhằm nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật và hạn chế tình trạng sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần tạo thành một hệ thống chắp vá, tạo kẽ hở cho tiêu cực và gây khó khăn không đáng có cho cả đối tượng thực hiện và cơ quan quản lý.
2. Khi phát hiện ra văn bản quy phạm pháp luật ban hành trái thẩm quyền và/ hoặc không phục vụ lợi ích của nhân dân, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền và có trách nhiệm huỷ bỏ ngay văn bản đó.
Quy định bổ sung này nhằm ngăn chặn triệt để việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái thẩm quyền, thậm chí sử dụng cả công văn để thay thế văn bản quy phạm pháp luật đang xẩy ra hiện nay.

7. VềPháp lệnh  của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

Điều 12 của dự thảo quy định: “Pháp lệnh quy định về những vấn đề được Quốc hội giao, trừ vấn đề  thuế và những vấn đề về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; sau một thời gian thực hiện, Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”.
Đề nghị sửa lại như sau: “Pháp lệnh quy định về những vấn đề được Quốc hội giao, trừ những vấn đề về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; sau một thời gian thực hiện, Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật hoặc những vấn đề quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân nhưng chỉ có ý nghĩa trong một thời hạn ngắn không cần phải ban hành luật.

Bổ sung thêm như trên nhằm tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội với những vấn đề lớn của nền kinh tế quốc dân. Chẳng hạn, trong thời gian qua và trong khoảng 5 năm tới, cổ phần hoá các DNNN là vấn đề lớn. Song, dường như Quốc hội đã và đang đứng ngoài cuộc về vấn đề này. Thiết nghĩ, cần có một Pháp lệnh của UBTV Quốc hội về cổ phần hoá các DNNN để thúc đẩy quá trình này tới đích theo yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế quốc dân.

8. VềNghị định của Chính phủ

Điều 14 của dự thảo quy định Nghị định của Chính phủ. Những quy định của dự thảo là hợp lý, cần thiết. Song, để khắc phục tình trạng Nghị định của Chính phủ là “cầu trung gian không cần thiết”, xin kiến nghị bổ sung khoản 3 như sau :
“3. Nghị định của Chính phủ là văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn cuối cùng để thi hành Luật, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”.

9. Về thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ

Phần trên đã đề nghị bỏ các Thông tư ra khỏi danh mục các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu đạt được như thế là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, có thể đề nghị đó, vì nhiều lý do, sẽ không được chấp thuận. Điều đó có nghĩa là, nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp vẫn phải chuẩn bị tinh thần để “sống chung với Thông tư hướng dẫn”. Để góp phần giảm bớt khó khăn của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, xin đề nghị sửa lại một số nội dung của Điều 16 như sau:

1. Khoản 1, Điều 16 xin sửa lại như sau: Căn cứ vào nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư.
2. Khoản 2. Điều 16 đề nghị sửa lại như sau:
Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được ban hành để quy định về các vấn đề sau đây:
a) Quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
b) Quy định các quy trình, quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách;
c) Quy định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.
3. Thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phải do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ký ban hành, không được uỷ quyền cho cấp Thứ trưởng hoặc cấp phó.
4. Trước khi ký ban hành, dự thảo các Thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phải được lấy ý kiến đóng góp của nhân dân theo quy định của Luật này.

10. Về Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước

Căn cứ vào Luật Kiểm toán Nhà nước và địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước hiện nay, đề nghị sửa lại khoản 1, Điều 19 của Dự thảo như sau:
“1. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Tổng kiểm toán nhà nước ban hành quyết định”.

11. Về Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch

Đề nghị bỏ hình thức Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch bởi lẽ, khi có những vấn đề liên quan đến nhiều Bộ, ngành thì Nghị định của Chính phủ là văn bản phù hợp nhất.

12. VềLập dự án chương trình xây dựng luật, pháp lệnh     

Điều 22 của dự thảo quy định về việc lập dự án chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Đề nghị nghiên cứu, làm rõ hai vấn đề sau đây:
1.      Khoản 2 Điều 22 quy định: “2. Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật được quy định tại Điều 87 của Hiến pháp năm 1992 gửi đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đồng thời gửi đến Chính phủ. Kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội cũng được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ”. Đề nghị làm rõ: Cơ quan, tổ chức nêu ở đây là những cơ quan, tổ chức nào? Các tổ chức phi chính phủ như hội, hiệp hội có quyền này không?
2.      Dự thảo luật có quy định: “Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những quan điểm, nội dung chính của văn bản; dự báo tác động kinh tế - xã hội; dự kiến nguồn lực và điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản". Đề nghị làm rõ hơn nội dung:  Dự báo tác động kinh tế - xã hội trong quy định nêu trên. Có thể phải có một Điều khoản riêng về vấn đề này.

13. Về cơ quan chủ trì soạn thảo

Điều 25 của dự thảo luật quy định về  Cơ quan chủ trì soạn thảo. Đề nghị làm rõ: Các tổ chức hội, hiệp hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có được trình và chủ trì soạn thảo dự án luật không? Nếu được thì đề nghị thêm vào điều 25, khoản 4 quy định trình tự, thủ tục và những vấn đề có liên quan đến soạn thảo dự thảo văn bản trong trường hợp này, cụ thể là:
“ 4. Đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do các tổ chức phi chính phủ trình thì tổ chức đó chủ trì soạn thảo. Chính phủ có trách nhiệm bảo đảm những điều kiện cần thiết về thông tin, kinh phí...để tổ chức đó thực hiện việc soạn thảo dự thảo văn bản”.

14. Về thành phần Ban soạn thảo

Điều 27 của dự thảo luật quy định về thành phần Ban soạn thảo
Đề nghị quy định rõ hơn thành phần Ban soạn thảo để ngăn chặn tình trạng loại bỏ những ý kiến phản biện trong Ban soạn thảo. Xin đề nghị sửa lại khoản 1 như sau:
1.Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo. Các thành viên khác gồm: 
-         Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo;
-         Đại diện lãnh đạo các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội; xã hội – nghề nghiệp;
-         Đại diện các Hội, Hiệp hội của các ngành, lĩnh vực có liên quan;
-         Đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
-         Các chuyên gia, nhà khoa học.

15. Về Lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

Khoản 3, Điều 31 của dự thảo luật quy định về việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết như sau:
“3. Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm góp ý kiến vào dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, Bộ Tài chính có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn tài chính dự kiến; Bộ Nội vụ có trách nhiệm góp ý kiến về nguồn nhân lực dự kiến nhằm bảo đảm thi hành văn bản sau khi được ban hành; Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm góp ý kiến về tác động của dự thảo đối với môi trường; Bộ Ngoại giao có trách nhiệm góp ý kiến về sự phù hợp của dự thảo với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.

Xin đề nghị bổ sung vào khoản 3 nêu trên như sau: “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có trách nhiệm góp ý kiến về tác động của dự thảo tới môi trường kinh doanh, đầu tư”.

16. Về rà soát dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết

Điều 52 dự thảo luật quy định về rà soát, hoàn thiện về kỹ thuật dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Đề nghị đưa thêm nội dung rà soát việc tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân vào khoản 2 Điều này. Theo đó, khoản 2, điều này đề nghị được sửa lại như sau: 

3.      Thường trực Uỷ ban pháp luật chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thực hiện việc rà soát dự án dự thảo với những nội dung sau:
-  Rà soát về tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự thảo văn bản.
-  Hoàn thiện về mặt kỹ thuật văn bản để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự thảo văn bản.
-  Rà soát về việc tiếp thu các ý kiến góp ý của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp;

17.  Về thời hạn gửi dự thảo văn bản cho đại biểu Quốc hội.

Khoản 1, Điều 53 dự thảo luật quy định:
1. Chậm nhất là 01 ngày trước ngày Quốc hội, biểu quyết thông qua, dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội phải được gửi đến đại biểu Quốc hội.
Chúng tôi cho rằng, thời hạn 01 ngày theo quy định trên là không hợp lý, không thể đủ thời gian vật chất cho đại biểu Quốc hội nghiên cứu và cho ý kiến đối với dự thảo văn bản, từ đó, rất có thể, việc xin ý kiến các đại biểu Quốc hội trở thành hình thức.
Đề nghị sửa lại như sau:  “Chậm nhất là 05 ngày làm việc trước ngày Quốc hội biểu quyết thông qua, dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội phải được gửi đến đại biểu Quốc hội”.

18. Về thời hạn gửi dự thảo văn bản cho UBTV Quốc hội

 Khoản 1, Điều 54 dự thảo luật quy định:
1. Chậm nhất là 01 ngày trước ngày Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được gửi đến thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tương tự như khoản 1, Điều 53, đề nghị sửa lại khoản 1 Điều này như sau:
1. Chậm nhất là 05 ngày trước ngày Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được gửi đến thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

19. Về Ban soạn thảo nghị định

Khoản 1,Điều 58 dự thảo luật quy định:
1.Cơ quan chủ trì soạn thảo thành lập Ban soạn thảo nghị định. Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo và các thành viên là đại diện cơ quan thẩm định, đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, một số chuyên gia, nhà khoa học.
Xin đề nghị sửa lại khoản 1 nêu trên như sau:
“1.Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban soạn thảo nghị định. Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là Bộ trưởng của Bộ hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý trực tiếp vấn đề của dự thảo văn bản và các thành viên là đại diện cơ quan thẩm định, đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, một số chuyên gia, nhà khoa học”.

20. Về việc lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định          
                                                  

Khoản 1, Điều 60 dự thảo luật quy định:
1. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; đăng tải dự thảo trên Trang thông tin điện tử (Website) của Chính phủ hoặc của cơ quan chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là hai mươi ngày, kể từ ngày đăng tải dự thảo, đối với dự thảo có nội dung liên quan hoặc ảnh hưởng tới thương mại hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý về dự thảo.
Đề nghị sửa lại về thời gian là: “ Trong thời gian ít nhất là 60 ngày”. Đó là thời hạn cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Khoản 3 Điều 60 quy định: “ý kiến góp ý  được nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo”.
Đề nghị sửa lại khoản 3 như sau:
“3. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tổng hợp, tiếp thu các ý kiến góp ý và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về: Loại, số lượng ý kiến được tiếp thu; loại. số lượng ý kiến không được tiếp thu, lý do không tiếp thu”.

21. Về các trường hợp soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn

Điều 72 của dự thảo luật quy định các trường hợp soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Đề nghị quy định cụ thể hơn những trường hợp nào được soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn nhằm ngăn chặn tình trạng cố tình đưa một vấn đề nào đó, vì một lý do thiếu minh bạch vào diện được soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn.

22. Về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

Điều 75 quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật như sau:
1. Văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
2. Văn bản quy phạm pháp luật do Chủ tịch nước ban hành có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác.
3. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành và thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật liên tịch được quy định rõ ngay trong văn bản nhưng phải bảo đảm đủ thời gian để công chúng có điều kiện tiếp cận văn bản, các đối tượng thi hành có điều kiện chuẩn bị thực hiện văn bản. Đề nghị sửa lại khoản 3 nêu trên như sau:

3. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành và thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật liên tịch bao gồm cả những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực chi tiết phải có hiệu lực cùng với thời điểm có hiệu lực của các văn ban quy phạm pháp luật do Quốc hội, UBTV Quốc hội, Chủ tịch nước ban hành”.

Với nội dung mới của khoản 3 Điều 75 nêu trên, đề nghị bỏ Điều 76.

23. VềHiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật

Khoản 1 Điều 77 dự thảo luật quy định:
“1. Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước”.
Đề nghị quy định rõ hơn: Những trường hợp thật cần thiết là những trường hợp nào? Nếu không quy định rõ ràng về nội dung này, chắc chắn sẽ xẩy ra tình trạng “hồi tố” vô lý gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước hoặc dẫn đến phá sản đối với các doanh nghiệp.

24. Về thẩm quyền giải thích văn bản quy phạm pháp luật

Điều 82 dự thảo luật quy định: “Thẩm quyền giải thích văn bản quy phạm pháp luật”. Đề nghị sửa lại tên Điều khoản là: “Thẩm quyền và trách nhiệm giải thích văn bản quy phạm pháp luật”, Theo đó, ở tất cả các khoản trong điều này đều thêm cụm từ “ và trách nhiệm” sau cụm từ “thẩm  quyền”.

25. Về văn bản giải thích

Điều 85 dự thảo luật quy định về “Soạn thảo văn bản giải thích”. Đề nghị sửa lại tên của Điều khoản này là “Văn bản giải thích văn bản quy phạm pháp luật”. Với tên mới này, đề nghị bổ sung khoản 4 như sau:
“4. Văn bản giải thích văn bản quy phạm pháp luật phải trả lời trực tiếp, đầy đủ, rõ ràng cho cá nhân, tổ chức đề nghị giải thích về vấn đề cần giải thích, không được trả lời chung chung, né tránh hoặc chuyển trách nhiệm cho cơ quan khác”.

26. Về giám sát, kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Khoản 1, Điều  86 dự thảo luật quy định:
“1. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra theo quy định của pháp luật”.
Đề nghị bỏ khoản này vì quy định như vậy là vô nghĩa. Chính luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải quy định thẩm quyền giám sát, kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. /.
                                    ----------------------------------------------------------

Các văn bản liên quan