Góp ý Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thay thế Quyết định số 06/2020/QĐ-TTg về quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam
Kính gửi: Bộ Ngoại giao
Trả lời Công văn số 7695/BNG-NVVH của Bộ Ngoại giao về việc đề nghị góp ý Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến góp ý ban đầu như sau:
- Phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
– Về phạm vi điều chỉnh
Một trong những mục tiêu quan trọng của cơ chế quản lý cấp phép đối với hoạt động tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế là nhằm kiểm soát những rủi ro đối với an ninh quốc gia, quốc phòng, những vấn đề nhạy cảm. Đây là mục tiêu hợp lý.
Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế là hoạt động diễn ra thường xuyên, do nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện. Đây cũng là cách thức để chúng ta giao lưu, hội nhập và tìm kiếm cơ hội, học hỏi từ các đối tác quốc tế và cũng là đòi hỏi của thực tiễn. Nếu thiết lập cơ chế quản lý quá chặt chẽ, bằng việc cấp phép cho các hội nghị, hội thảo quốc tế sẽ là rào cản rất lớn cho hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Xuất phát từ mục tiêu quản lý và yêu cầu về tạo thuận lợi cho các đơn vị tổ chức, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ, đề nghị cơ chế quản lý đối với hoạt động tổ chức hội nghị, hội thảo nên tiếp cận theo hướng:
– Xác định những vấn đề nhạy cảm, tác động lớn đến an ninh quốc gia, quốc phòng. Đối với những vấn đề này, các hội thảo hội nghị quốc tế cần phải được kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở cấp phép
– Ngoài những vấn đề trên, hoạt động hội nghị, hội thảo quốc tế cần được tạo điều kiện để các đơn vị tổ chức chủ động, không cần phải xin phép hoặc phân cấp thẩm quyền cho các tổ chức có Đảng ủy và người đứng đầu thuộc diện Ban Bí thư quản lý tự quyết, tự chịu trách nhiệm đúng theo tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về cải cách thể chế.
So với Quyết định 06/2020/QĐ-TTg, Dự thảo đã có nhiều điều chỉnh theo hướng cụ thể, rõ ràng và thuận lợi hơn về thủ tục hành chính. Điều này thể hiện tinh thần cải cách, cầu thị của cơ quan chủ trì soạn thảo khi lắng nghe những vướng mắc, bất cập của các quy định liên quan đến hoạt động tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn đang đi theo hướng, tất cả các hội nghị, hội thảo quốc tế (dù có đề tài nhạy cảm, tác động đến an ninh quốc gia, quốc phòng hay không) đều phải xin cấp phép. Thủ tục chỉ khác biệt ở quy trình xin ý kiến phụ thuộc vào tính chất của hội nghị, hội thảo (có vấn đề nhạy cảm, có tác động đến an ninh quốc gia, quốc phòng hay không). Chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận này chưa thật sự hợp lý và chưa thể hiện tinh thần cải cách về thủ tục hành chính.
Trong bối cảnh, Đảng, Chính phủ đang thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ như hiện nay, để vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước vừa đảm bảo tinh thần cải cách, đề nghị xác địnhlại phạm vi điều chỉnh như sau:
Quyết định này quy định về việc tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Các hội nghị, hội thảo có chủ đề, nội dung liên quan đến biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, quốc phòng, có nội dung liên quan đến các khía cạnh an ninh, chính trị của vấn đề dân tộc, tôn giáo, quyền con người thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định này.
– Các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh
Khoản 2 Dự thảo liệt kê các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định. Về cơ bản đã loại trừ các hoạt động không có tính chất hội nghị, hội thảo hoặc trao quyền tự chủ hơn cho các đơn vị tổ chức trong việc tổ chức. Điều này sẽ tạo thuận lợi hơn rất nhiều cho đơn vị tổ chức và thể hiện được tinh thần cải cách. Tuy nhiên, để bao quát hơn, đề nghị bổ sung thêm các hoạt động:
+ Lễ Công bố các sự kiện, chương trình, báo cáo, …
+ Tọa đàm, cuộc họp, trao đổi có yếu tố nước ngoài
+ Hội chợ, triển lãm, lễ hội, các hoạt động xúc tiến thương mại khác có yếu tố nước ngoài.
- Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
– “Hội nghị, hội thảo quốc tế”
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 Dự thảo, một trong các yếu tố để xác định “hội nghị, hội thảo quốc tế” là “có diễn giả hoặc đại biểu không có quốc tịch Việt Nam hoặc là đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài”.
Yêu cầu đại biểu hội thảo không có quốc tịch Việt Nam hoặc là đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài sẽ khiến cho rất nhiều hội nghị, hội thảo được xem là hội nghị, hội thảo quốc tế. Hiện nay, người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp tại Việt Nam, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài ở Việt Nam khá nhiều, họ có thể đến các hội thảo, hội nghị để theo dõi thông tin. Bản thân ban tổ chức hội nghị, hội thảo cũng không thể kiểm soát được việc đại biểu không có quốc tịch Việt Nam hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, có tham gia hay không vì thông tin của hội nghị, hội thảo đăng tải công khai và nhiều đại biểu đến tham dự mà không đăng ký trước với Ban tổ chức, khi họ đến cũng khó có lý do để từ chối. Điều này đặt đơn vị tổ chức hội nghị, hội thảo vào những rủi ro pháp lý khi bị coi vi phạm về thủ tục xin cấp phép.
Mặt khác, sự tham dự của các đại biểu không có quốc tịch Việt Nam, đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam sẽ không tác động/ ảnh hưởng/quyết định đến nội dung của hội nghị, hội thảo. Vì vậy, việc dự thảo xem đây là hội nghị, hội thảo quốc tế và yêu cầu xin cấp phép là quá mức cần thiết và tạo gánh nặng về thủ tục cho các đơn vị tổ chức.
Từ những phân tích trên, đề nghị sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 3 Dự thảo theo hướng “có diễn giả không có quốc tịch Việt Nam”, tức là bỏ quy định “đại biểu không có quốc tịch Việt Nam hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài”.
– “Cơ quan, tổ chức Việt Nam”
Khoản 2 Điều 3 Dự thảo quy định “cơ quan, tổ chức Việt Nam bao gồm các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thành lập theo pháp luật Việt Nam, thuộc thẩm quyền quản lý của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương”. So với Quyết định 06/2020/QĐ-TTg, Dự thảo đã mở rộng đối tượng tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế phải xin phép, theo đó doanh nghiệp tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế cũng phải thực hiện xin cấp phép.
Quy định này cần được cân nhắc, xem xét lại ở các góc độ:
+ Hoạt động tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, diễn ra thường xuyên. Nếu như mỗi hoạt động này phải xin cấp phép sẽ tạo ra khối lượng thủ tục rất lớn, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.
+ Hoạt động của doanh nghiệp có tính chất linh hoạt, nếu yêu cầu phải xin phép theo trình tự thủ tục tại Dự thảo (trước 15 ngày) là chưa phù hợp với thực tế, rất khó để thực hiện.
Trong bối cảnh Đảng, Nhà nước đang thúc đẩy mạnh mẽ về cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm quy định tạo ra gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp, đề nghị bỏ cụm từ “doanh nghiệp” trong quy định tại khoản 2 Điều 3 Dự thảo.
– “Đơn vị tổ chức”
Điểm b khoản 5 Điều 3 Dự thảo xác định đơn vị tổ chức là “Cơ quan, tổ chức có giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế hoặc dịch vụ tổ chức sự kiện tại Việt Nam được cơ quan, tổ chức nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này và không có đối tác đồng chủ trì đáp ứng quy định tại điểm a khoản này thuê làm đơn vị tổ chức.” Quy định này được hiểu, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế hoặc dịch vụ tổ chức sự kiện tại Việt Nam mới được phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế do tổ chức nước ngoài thuê. Điều này cần cân nhắc lại, bởi các điểm sau:
+ Lý do để cho phép công ty lữ hành quốc tế được nhận dịch vụ thuê tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của tổ chức nước ngoài mà không phải là các doanh nghiệp khác là chưa rõ ràng. Các doanh nghiệp khác cũng có thể có hoạt động giao dịch với đối tác nước ngoài.
+ Việc xem xét ngành nghề đăng ký kinh doanh để cho phép thực hiện một dịch vụ thông thường là chưa phù hợp với tinh thần tự do kinh doanh mà Nhà nước đang thúc đẩy.
Đề nghị điều chỉnh điểm b khoản 5 theo hướng các cơ quan, doanh nghiệp được cơ quan, tổ chức nước ngoài không thuộc quy định tại khoản 4 Điều này và không có đối tác đồng chủ trì đáp ứng quy định tại điểm a khoản này thuê làm đơn vị tổ chức.
- Thẩm quyền cho phép tổ chức hoặc chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế (Điều 5)
Điều 5 xác định thẩm quyền cho phép tổ chức hoặc chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo, trong đó thể hiện tính chất phân quyền mạnh mẽ, trao quyền tự chủ cho người đứng đầu một số cơ quan như Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đã tạo thuận lợi rất lớn cho các tổ chức, cơ quan này khi tổ chức hội thảo hội nghị.
Một trong những điểm mới của Dự thảo so với Quyết định 06/2020/QĐ-TTg là bỏ quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thực hiện theo quy định của Đảng”, điều này được hiểu các tổ chức này cũng sẽ phải thực hiện thủ tục cấp phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Tuy nhiên, Dự thảo lại không quy định rõ trường hợp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị, hội thảo thì do cơ quan nào cho phép.
Để đảm bảo tinh thần phân cấp và tạo thuận lợi về thực hiện thủ tục, đề nghị bổ sung quy định tại Điều 5 theo hướng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được cho phép tổ chức hoặc cho chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế của cơ quan mình.
- Hội nghị, hội thảo quốc tế thuộc đề án, chương trình, dự án, phi dự án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (Điều 7)
Khoản 1, khoản 2 Điều 7 Dự thảo quy định các trường hợp hội nghị, hội thảo quốc tế không cần phải xin phép nếu nằm trong đề án, chương trình, kế hoạch, dự án, phi dự án đã được phê duyệt. Quy định này là hợp lý và sẽ giảm tải thủ tục hành chính. Tuy nhiên, quy định tại Dự thảo còn thể hiện khá cứng nhắc và chưa thực sự phù hợp, cụ thể:
– Khoản 1 yêu cầu hội nghị, hội thảo quốc tế trong đề án, chương trình, kế hoạch đón đoàn thăm, làm việc đã được chính cơ quan có thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có thẩm quyền, phê duyệt. Quy định này sẽ hạn chế về số hội nghị, hội thảo quốc tế không cần phải xin phép.
Trên thực tế, có các đề án, chương trình, dự án, phi dự án được phê duyệt bởi các cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan này không phải là cơ quan có thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có thẩm quyền, phê duyệt.
Về nguyên tắc và theo quy định của pháp luật, cơ quan phê duyệt đề án, dự án, chương trình, phi dự án đã xem xét các yếu tố tác động của các chương trình, đề án, dự án, trong quá trình phê duyệt đã hỏi ý kiến các cơ quan liên quan (trong đó có cơ quan cấp phép), đặc biệt là các cơ quan phụ trách về an ninh, quốc phòng, những yếu tố nhạy cảm khác. Trong các chương trình, đề án, dự án, phi dự án có nêu những hoạt động khi triển khai, trong đó có các hoạt động hội nghị, hội thảo. Khi đề án, chương trình, dự án, phi dự án được phê duyệt, có nghĩa những yếu tố liên quan đến an ninh quốc gia, quốc phòng, các yếu tố nhạy cảm khác không tác động đáng kể hoặc đã được kiểm soát.
Vì vậy, cần mở rộng cả những hội nghị, hội thảo quốc tế trong đề án, chương trình, kế hoạch đón đoàn thăm, làm việc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (tức là không chỉ giới hạn trong cơ quan có thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt).
– Khoản 2 yêu cầu yêu cầu hội nghị, hội thảo quốc tế trong chương trình, dự án, phi dự án phải có thông tin về “thời gian, địa điểm, thành phần tham dự, diễn giả nước ngoài, chương trình” tại thời điểm phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án là chưa hợp lý. Tại thời điểm này rất khó để có được các thông tin quá chi tiết về hội nghị, hội thảo dự kiến tổ chức. Trên thực tế, các dự án ODA hoặc kế hoạch xúc tiến thương mại cả năm của VCCI thường được phê duyệt từ đầu năm. Tại thời điểm đó, chưa thể biết chính xác “diễn giả nước ngoài” là ai hay “ngày giờ cụ thể” của một hội thảo diễn ra vào các tháng giữa hay cuối năm. Yêu cầu này sẽ vô hiệu hóa quyền được miễn xin phép của các hội nghị, hội thảo quốc tế trong chương trình, dự án, phi dự án đã được phê duyệt.
Mặt khác, tại thời điểm phê duyệt, chỉ cần xem xét nội dung chung, mục tiêu của hội nghị, hội thảo trong tổng thể dự án, chương trình, đề án, phi dự án có hợp lý hay không, chưa cần thiết phải xem xét quá chi tiết về hội nghị, hội thảo.
Từ những phân tích trên, để đảm bảo tính hợp lý và phù hợp với thực tế, đề nghị điều chỉnh khoản 1, khoản 2 Điều 7 Dự thảo như sau:
– Khoản 1: hội nghị, hội thảo quốc tế là hoạt động chính thức trong đề án, chương trình, kế hoạch đón đoàn thăm, làm việc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật thì không cần phải xin phép
– Khoản 2: hội nghị, hội thảo quốc tế là hợp phần thuộc các chương trình, dự án, phi dự án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật thì không cần phải xin phép.
- Hồ sơ, trình tự thủ tục xin phép, cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc chủ trì tổ chức (Điều 8)
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 Dự thảo, trong hồ sơ xin phép phải có “Bản sao văn bản phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án của cơ quan có thẩm quyền nếu hội nghị, hội thảo quốc tế là hoạt động thuộc chương trình, dự án, phi dự án hoặc có mục đích, nội dung giới thiệu, báo cáo về chương trình, dự án, phi dự án; bản sao giấy chứng nhận, giấy phép theo quy định của pháp luật chuyên ngành nếu hội nghị, hội thảo quốc tế có mục đích, nội dung giới thiệu, quảng cáo hoạt động kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ, tài sản. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tra cứu được thông tin, dữ liệu về văn bản, giấy chứng nhận, giấy phép trên các hệ thống, cơ sở dữ liệu thì đơn vị tổ chức không phải nộp các giấy tờ quy định tại điểm này.”.
Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:
– “Yêu cầu phải có bản sao văn bản phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án của cơ quan có thẩm quyền nếu hội nghị, hội thảo quốc tế là hoạt động thuộc chương trình dự án”. Trên cơ sở góp ý tại mục 3 của văn bản góp ý này, đề nghị bỏ yêu cầu phải có văn bản này, vì những chương trình, dự án, phi dự án đã được phê duyệt thì hội nghị, hội thảo quốc tế thuộc chương trình, dự án sẽ không cần phải xin phép;
– “Bản sao giấy chứng nhận, giấy phép theo quy định của pháp luật chuyên ngành nếu hội nghị, hội thảo quốc tế có mục đích, nội dung giới thiệu, quảng cáo hoạt động kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ, tài sản”. Trên thực tế, không phải hoạt động kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ, tài sản nào cũng cần phải có giấy phép. Quy định này có thể dẫn tới cách hiểu các hoạt động kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ, tài sản được giới thiệu trong hội nghị, hội thảo phải có giấy phép, hoặc đưa đến nguy cơ, cơ quan cấp phép yêu cầu đơn vị tổ chức chứng minh đây là hoạt động kinh doanh, sản phẩm, dịch vụ, tài sản không có giấy phép. Để đảm bảo tính phù hợp và minh bạch, đề nghị bổ sung cụm từ “nếu có” vào quy định này.
- Các hội nghị, hội thảo quốc tế cần lấy ý kiến cơ quan, địa phương liên quan (Điều 10)
Theo quy định tại Điều 10, các hội nghị, hội thảo quốc tế cần lấy ý kiến cơ quan, địa phương liên quan gồm có:
– “Đối với các hội nghị, hội thảo quốc tế khác mà cơ quan có thẩm quyền thấy có nguy cơ gây phương hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc, hình ảnh đất nước, con người, phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, ảnh hưởng xấu đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các đối tác, cần lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và Bộ, cơ quan ngang Bộ phụ trách lĩnh vực chuyên ngành” (khoản 5). Quy định này có phạm vi quá rộng và chưa thật rõ ràng, còn mang tính định tính, dựa hoàn toàn vào khả năng suy đoán của cơ quan cấp phép. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ, hội nghị, hội thảo nào cũng phải xin ý kiến của các cơ quan liên quan.
– “Đối với các trường hợp khác, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc lấy ý kiến của Bộ Công an, Bộ, cơ quan chuyên ngành, địa phương có phạm vi quản lý về ngành, lĩnh vực trực tiếp liên quan đến chủ đề, nội dung của hội nghị, hội thảo quốc tế, địa phương nơi hội nghị, hội thảo quốc tế tổ chức nếu thấy cần thiết hoặc trong trường hợp pháp luật chuyên ngành yêu cầu. Văn bản lấy ý kiến cần nêu rõ nội dung, vấn đề muốn xin ý kiến đối với từng cơ quan, địa phương” (khoản 8). “Nếu thấy cần thiết” là căn cứ chung chung, chưa đủ rõ ràng. Thông thường, pháp luật chuyên ngành sẽ dẫn chiếu tới quy định của Quyết định này nếu tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, vì vậy sẽ không có “trường hợp pháp luật chuyên ngành yêu cầu”. Quy định này có thể dẫn tới nguy cơ là hội nghị, hội thảo quốc tế nào cũng phải xin ý kiến của các bộ ngành liên quan.
Khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7 Điều 10 quy định các trường hợp phải xin ý kiến các cơ quan liên quan và địa phương. Đây là các trường hợp ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, quốc phòng, những vấn đề nhạy cảm như tôn giáo, quyền con người, việc lấy ý kiến các cơ quan liên quan là cần thiết. Việc Dự thảo thiết kế các quy định này để làm rõ các trường hợp phải lấy ý kiến, nhằm đảm bảo tính rõ ràng và đơn giản quy trình thủ tục. Tuy nhiên, ngoài các điều khoản liệt kê những trường hợp trên, Dự thảo quy định hai trường hợp tại khoản 5 và khoản 8 trên khiến cho gần như trường hợp nào của hội nghị, hội thảo quốc tế cũng phải xin ý kiến các cơ quan có liên quan và làm giảm đáng kể ý nghĩa của việc quy định rõ các trường hợp phải xin ý kiến và khiến cho quy trình thủ tục trở nên phức tạp, kéo dài.
Đề nghị bỏ khoản 5 và khoản 8 Điều 10 để đảm bảo tính rõ ràng và thuận lợi về quy trình thủ tục khi xin phép về hội nghị, hội thảo quốc tế.
- Điều chỉnh hội nghị, hội thảo quốc tế đã được phép tổ chức (Điều 12)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Dự thảo trường hợp thay đổi “diễn giả nước ngoài” phải thực hiện thủ tục như xin phép lần đầu. Quy định này cần cân nhắc xem xét lại. Bởi, trên thực tế, trong các diễn đàn doanh nghiệp, việc thay đổi diễn giả là các CEO là phổ biến vì phụ thuộc vào lịch trình kinh doanh hoặc trong một số trường hợp bất khả kháng, nếu yêu cầu phải quay trở lại thực hiện xin phép như lần đầu sẽ tạo gánh nặng rất lớn về thủ tục và trong nhiều trường hợp sẽ khiến cho hội thảo không thể diễn ra vì không kịp thời gian xin cấp phép..Các khâu tổ chức hội thảo đang được thực hiện theo thời gian dự kiến xin phép, nếu như phải xin phép lại từ đầu, có nghĩa là thời gian tổ chức dự kiến sẽ không thể diễn ra như kế hoạch, trong khi đó các khâu chuẩn bị đã thực hiện trước đó rồi, kèm theo là các chi phí đã chi trả cho việc chuẩn bị. Điều này sẽ gây thiệt hại lớn cho đơn vị tổ chức. Đề nghị điều chỉnh quy định theo hướng, trong trường hợp thay đổi diễn giả nước ngoài nhưng không thay đổi nội dung, mục đích hội thảo thì chỉ cần gửi thông báo tới cơ quan cấp phép như cơ chế quy định tại khoản 2 Điều 12 Dự thảo.
- Trách nhiệm của đơn vị tổ chức và các tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 15)
Khoản 2 Điều 15 Dự thảo quy định, các đơn vị tổ chức phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền về kết quả tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc hội nghị, hội htaor quốc tế. Thời hạn 10 ngày là khá ngắn, nhất là với các hội nghị, hội thảo quy mô lớn, nội dung nhiều, phức tạp. Để tạo thuận lợi cho đơn vị tổ chức, đề nghị mở rộng thời hạn này từ 15-20 ngày.
- Mẫu Đơn xin phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (Mẫu số 02)
Trong Mẫu số 02 yêu cầu phải có “số lượng và thành phần đại biểu tham dự” trong đó phải ghi cụ thể số lượng đại biểu Việt Nam, số lượng đại biểu nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam, số lượng đại biểu nước ngoài đang sinh sống ở nước ngoài, đại biểu nước ngoài đến từ các nước, tổ chức quốc tế nào. Việc yêu cầu cung cấp quá chi tiết như thế này là rất khó tại thời điểm xin cấp phép, vì tại thời điểm này mọi thông tin mới chỉ là dự kiến, nhất là “số lượng”. Mặt khác, đối với những hội thảo mở, được thông tin rộng rãi, tức là sự kiến có nội dung thuần túy chuyên môn, không có nội dung chính trị nhạy cảm ban tổ chức rất khó để xác định trước số lượng chính xác đại biểu Việt Nam, đại biểu nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam đến tham dự.
Để phù hợp với thực tiễn, đề nghị trong nội dung này chỉ cần nêu số lượng dự kiến đại biểu tham dự, trong đó chỉ cần nêu số lượng đại biểu nước ngoài tham dự mà không cần liệt kê chi tiết như tại Mẫu số 02 và tất cả các thông tin này chỉ là “dự kiến”.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
Website xây dựng pháp luật của VCCI