Góp ý của Ô. Đặng Duy Thịnh – Viện CL và CS Khoa học và Công nghệ

Thứ Tư 08:29 09-08-2006
Xây dựng dự thảo  Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam
 
                                                             Đặng Duy Thịnh
                                                       Viện CLvà CS KH&CN

  I. Vài  nét về quản lý chuyển giao công nghệ tại Việt Nam thời gian qua
 
1. Chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài
 
       - Các nhà đầu tư thường đưa chi phí chuyển giao công nghệ vào chi phí mua thiết bị, do vậy họ thường không lập hợp đồng chuyển giao công nghệ.
 
        - Bên giao công nghệ là bên nước ngoài nắm đa số vốn của bên nhận công nghệ, do vậy bên giao thường sắp đặt nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ với các điều khoản có lợi cho bên giao.
 
       - Hầu hết các hợp đồng chuyển giao công nghệ là các hợp đồng trọn gói, nhưng trong các hợp đồng đều không nêu cụ thể tên và số hiệu văn bằng sáng chế được bảo hộ.  Khoảng 65% số hợp đồng đã đăng ký có bao gồm chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá.
 
       - Phương thức thanh toán phổ biến trong các hợp đồng là thanh toán bằng một khoản trả ban đầu kết hợp với trả kỳ vụ theo phần trăm giá bán tịnh hoặc trả gọn bằng một khoản tiền, chia thành nhiều đợt; ít gặp trường hợp thanh toán bằng góp vốn bằng công nghệ.
 
       - Tính đến tháng 07/2005 nước ta có trên 5500 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép, nhưng số hợp đồng được đăng ký hoặc phê duyệt chỉ khoảng gần 500 hợp đồng (12%).
 
       - Công nghệ được chuyển giao hầu hết có trình độ tiến tiến. Một số ngành sản xuất đã xuất hiện những dây chuyền sản xuất có trình độ tự động hóa cao như dây chuyền lắp ráp tự động các bản mạch điện tử,...
 
       - Trong một số lĩnh vực mà thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nuớc ta còn nhỏ và sản phẩm không có khả năng xuất khẩu như ôtô... thì hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư công nghệ ở những công đoạn đơn giản như hàn, sơn, lắp ráp...
 
2. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam
       - Đa số các doanh nghiệp Việt Nam khi mua công nghệ của nước ngoài thường tính chi phí chuyển giao công nghệ chung vào chi phí mua thiết bị, như vậy bên giao công nghệ sẽ phải nộp thuế bản quyền.
 
       - Bên giao thường chuẩn bị sẵn nội dung của hợp đồng trong đó quy định chặt chẽ trách nhiệm của bên nhận công nghệ trong việc thanh toán phí chuyển giao công nghệ và thường không có ràng buộc trách nhiệm bên giao công nghệ khi chuyển giao công nghệ vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của bên thứ ba.
 
      - Thông thường các hợp đồng chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam đều là các hợp đồng chuyển giao công nghệ trọn gói.  Khoảng 17% số hợp đồng chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam có nội dung chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá.
 
       -  Đa số các nội dung chuyển giao công nghệ không được lập thành các hợp đồng riêng mà đưa vào các hợp đồng nhập khẩu thiết bị nên số lượng hợp đồng chuyển giao công nghệ đăng ký rất thấp. Từ năm 2000 đến nay Bộ Khoa học và Công nghệ đã đăng ký, phê duyệt 91 hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào các doanh nghiệp vốn Việt Nam. 
 
II. hiện trạng pháp luật về chuyển giao công nghệ ở việt nam
 
1. Các quy định về chuyển giao công nghệ
 
a) Các văn bản pháp luật về chuyển giao công nghệ
 
Từ năm 1988 trở lại đây, nước ta đã ban hành trên 30 văn bản quy phạm pháp luật về chuyển giao công nghệ (CGCN) và liên quan đến CGCN. Những đạo luật liên quan chặt chẽ đến chuyển giao công nghệ bao gồm:
 
1- Bộ luật dân sự năm 1995 quy định các vấn đề rất cơ bản như: đối tượng CGCN, quyền CGCN, công nghệ không được chuyển giao và các vấn đề về hợp đồng CGCN. Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7/1998 hướng dẫn Luật dân sự 1995 quy định các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải đăng ký; cơ quan nhà nước có quyền phê duyệt tất cả các hơp đồng, quyết định giá của công nghệ, quyết định thời hạn hiệu lực của hợp đồng,... Nghị định số 11/2005/NĐ-CP đã sửa đổi Nghị định 45/1998/NĐ-CP theo hướng loại bỏ những quy định gây nhiều cản trở cho hoạt động CGCN.
 
2- Bộ luật dân sự năm 2005 (thay thế Bộ luật dân sự năm 1995) chỉ quy định mang tính nguyên tắc 4 điều về đối tượng chuyển giao công nghệ, quyền chuyển giao công nghệ, công nghệ cấm chuyển giao và hợp đồng chuyển giao công nghệ.
 
 3- Luật khoa học và công nghệ năm 2000 có các quy định về: quyền sở hữu, quyền tác giả của kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các biện pháp khuyến khích ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; phát triển thị trường công nghệ.
 
4- Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ và quy định việc chuyển nhượng, chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ. Luật không quy định vấn đề chuyển giao công nghệ.
 
 5-  Các Luật khác có liên quan đến chuyển giao công nghệ
 
- Luật đầu tư năm 2005 có một quy định liên quan đến CGCN như công nghệ khuyến khích chuyển giao, hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
 
- Luật Thương Mại  năm 2005 có một số quy định liên quan đến CGCN như: nhượng quyền kinh doanh, giám định, uỷ thác giám định
 
- Luật cạnh tranh năm 2004 có một số quy định về cấm các thoả thuận hạn chế phát triển KH&CN; buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp tới hợp đồng.
 
b) Các quy định chủ yêu về hoạt động CGCN trong luật pháp Việt Nam
 
1- Phương thức, phạm vi chuyển giao
 
- Phương thức chuyển giao: Chuyển giao các tài liệu kỹ thuật, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật để bên nhận công nghệ nắm được công nghệ cần chuyển giao.
        - Phạm vi chuyển giao công nghệ: Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ; Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ (li xăng công nghệ).
 
 2. Quyền, nghĩa vụ trong CGCN
 
- Cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác là chủ sở hữu công nghệ hoặc nắm giữ công nghệ một cách hợp pháp có quyền chuyển giao công nghệ đó cho người khác.
 
- Quyền của ng­ười đư­ợc chuyển giao quyền sử dụng các đối tư­ợng sở hữu công nghiệp, bảo đảm công nghệ đư­ợc chuyển giao không bị quyền của ng­ười thứ ba hạn chế và quyền phát triển công nghệ đ­ược chuyển giao.
 
 - Các tổ chức, cá nhân có quyền trưng cầu tổ chức đánh giá, giám định công nghệ tiến hành việc đánh giá, giám định công nghệ để làm cơ sở cho việc CGCN hoặc đánh giá kết quả CGCN.
 
3. Quản lý nhà nước trong CGCN
 
Các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự đã quy định về quản lý nhà nước trong CGCN bao gồm: Ban hành các văn bản pháp luật về CGCN, tổ chức hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó;Thẩm định và đăng ký các Hợp đồng CGCN, gia hạn, sửa đổi hoặc đình chỉ Hợp đồng CGCN; Quản lý các hoạt động tư vấn về CGCN, các hoạt động  đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ.;
 
4- Dịch vụ hỗ trợ thúc đẩy CGCN
 
Luật KH&CN và các văn bản quy pham pháp luật khác đã quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức dịch vụ KH&CN, trong đó có dịch vụ CGCN. Các hình thức dịch vụ bao gồm: môi giới, tư vấn, thông tin, xúc tiến chuyển giao công nghệ. Việc thực hiện dịch vụ này có thể dưới hình thức tổ chức doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp của nhà nước và  mọi thanh phần kinh tế có thể tham gia thực hiện.
 
5. Hợp đồng CGCN
 
Bộ Luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hợp đồng CGCN: đối tượng công nghệ; phạm vi cuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng; thời hạn hợp đồng CGCN; giá của công nghệ được chuyển giao; phương thức thanh tóan; quyền chuyển giao lại cho bên thứ ba; quyền cải tiến, phát triển đối với công nghệ được chuyển giao. Các quy định dưới Luật có một số hướng dẫn cụ thể:
 
        - Trong hợp đồng chuyển giao dây chuyền thiết bị sản xuất hoặc chuyển giao thiết bị toàn bộ nếu có nội dung CGCN thì phần CGCN phải lập thành  một phần riêng của Hợp đồng nhập thiết bị. Chi phí CGCN phải được tính riêng.
 
- Đối với các hợp đồng CGCN mà bên nhận không phải là doanh nghiệp Nhà nước hoặc không phải là dự án sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh thì các bên tham gia hợp đồng thoả thuận giá và phương thức thanh toán cho việc CGCN.
 
- Đối với các Hợp đồng CGCN mà bên nhận là doanh nghiệp Nhà nước hoặc dự án có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh thì chủ đầu tư phải lập hợp đồng CGCN trình cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét,  quyết định.
 
- Hợp đồng chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận đăng ký thì hợp đồng đó chưa có giá trị pháp lý và không được hạch toán các chi phí cho việc CGCN vào giá thành sản phẩm.
 
6. Tài chính, thuế liên quan đến CGCN
 
- Doanh nghiệp được dành một phần vốn để đầu tư đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp được tính vào giá thành sản phẩm;
 
- Sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm; sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam; các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; chuyển giao công nghệ; xuất khẩu công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật;
 
7. Các biện pháp khác
 
       - Các tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc; được hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động chuyển giao công nghệ;
       - Xây dựng hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia để thông tin đầy đủ về các thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ; hằng năm công bố danh mục và kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước.
 
II. Đánh giá chung các quy định pháp luật về CGCN
 
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về chuyển giao công nghệ đã tạo ra một khung pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ ở nước ta và bước đầu đã giúp việc tiếp thu và làm chủ được nhiều công nghệ.
 
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể có thể thấy hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CGCN có những hạn chế chủ yếu sau:
 
- Các quy định về chuyển giao công nghệ chủ yếu nằm trong các văn bản dưới luật, cơ quan quản lý can thiệp sâu vào hợp đồng (giá, thời hạn, phê duyệt hợp đồng…) làm ảnh hưởng đến việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
 
- Thiếu cơ sở pháp lý cần thiết cho việc hình thành và hoạt động của các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ (cung cấp thông tin, tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định, giám định công nghệ).
 
- Các cơ chế, chính sách khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ chưa được quy định một cách rõ ràng, chưa tạo được những công cụ, động lực đủ mạnh thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ.
 
iii. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật chuyển giao công nghệ của một số nước
 
1. Đối tượng, hợp đồng chuyển giao công nghệ
 
        Nghiên cứu luật pháp của Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ,...cho thấy:
        - Các nước đều coi sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết sản xuất, thiết kế bố trí mạch tích hợp là đối tượng CGCN. Không nước nào quy định chuyển giao riêng nhãn hiệu hàng hoá, máy móc, thiết bị là CGCN;
        - Mặc dù cấp phép đặc quyền kinh doanh (franchising) được các tổ chức quốc tế và nhiều nước coi là một hình thức CGCN, nhưng thường không được quy định trong các luật về CGCN mà được quy định riêng.
       
        Luật pháp của một số nước quy định về đối tượng chuyển giao công nghệ như sau:
 
        - Luật thúc đẩy chuyển giao công nghệ (2000) của Hàn Quốc quy định CGCN là việc chuyển giao từ người sở hữu sang người sử dụng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, công nghệ mang tính sở hữu trí tuệ, tài sản được thể hiện bằng các bí quyết kỹ thuật, phần mềm, thông tin công nghệ, thiết kế.
       - Luật thúc đẩy đầu tư nước ngoài (2003) của Hàn Quốc quy định hợp đồng CGCN là hợp đồng trong đó các bên Hàn Quốc mua quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu quyền SHTT hoặc các công nghệ khác của bên nước ngoài.
 - Luật Đổi mới công nghệ Stevenson-Wydler và các sửa đổi của Hoa Kỳ (Luật CGCN Liên bang1986, Luật CGCN cạnh tranh quốc gia 1989, Luật tiến bộ và CGCN Quốc gia, 1996, Luật thương mại hoá CGCN 2000) quy định CGCN bao gồm chuyển giao sáng chế, giải pháp kỹ thuật, dịch vụ kỹ thuật, đào tạo nhân lực, thông tin công nghệ và tài liệu kỹ thuật.
 
2. Hợp đồng, giá, phương thức thanh toán
 
        Nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật liên quan đến CGCN của các nước có thể nhận thấy:
 
       - Các quy định liên quan đến việc bảo hộ, phân biệt đối xử đã dần dần được dỡ bỏ, hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường CGCN, bảo đảm quyền tự chủ của các bên thực hiện chuyển giao công nghệ.
        - Giá thanh toán CGCN do các bên tự thỏa thuận theo một số phương thức cơ bản như: 1) trả kỳ vụ theo tỷ lệ phần trăm giá bán tịnh, doanh thu hoặc lợi nhuận trước thuế; 2) trả gọn một lần hoặc nhiều lần theo tiến độ thực hiện trong hợp đồng; 3) góp vốn bằng giá trị công nghệ vào các dự án đầu tư.
       - Hoạt động CGCN phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản, các bên tự thỏa thuận về nội dung. Trung Quốc và một số nước đều quy định một số nội dung cơ bản cần phải có trong hợp đồng CGCN để bảo đảm căn cứ pháp lý của hợp đồng.
 
       Một số quy định của Hàn Quốc và Trung Quốc về vấn đề này như sau:
 
       - Luật thúc đẩy CGCN (2003) của hàn Quốc quy định đối với thành quả nghiên cứu phát triển, cơ quan nghiên cứu công muốn chuyển giao công nghệ phải đăng ký nội dung công nghệ của mình đang sở hữu tại Trung tâm CGCN, ngoại trừ trường hợp bí mật quốc gia…
 
       - Luậtt thúc đẩy đầu tư nước ngoài (2003) của Hàn Quốc quy định: hợp đồng CGCN thời hạn 01 năm trở lên và công nghệ thuộc các lĩnh vực công nghệ cao, có tác động thúc đẩy cạnh tranh của các ngành công nghiệp trong nước, hàng không, vũ trụ, quốc phòng an ninh phải báo cáo cho Bộ trưởng thương mại, công nghiệp và năng lượng.
 
       - Luật khuyến khích kỹ thuật công nghệ (1992) của Hàn Quốc quy định: Xuất khẩu công nghệ phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước.
 
       - Luật hợp đồng (1999) của Trung Quốc quy định: Nội dung của hợp đồng cho các bên thỏa thuận, trong đó một số điều khoản chính bao gồm: Tên dự án, nội dung, phạm vi và yêu cầu đặt ra; kế hoạch, thời hạn, địa điểm, lãnh thổ và phương thức chuyển giao; thông tin kỹ thuật và bảo mật tư liệu, trách nhiệm của các bên trong trường hợp rủi ro, quyền sở hữu công nghệ và phân chia thu nhập sau khi chuyển giao; giá cả và phương thức thanh toán, những thiệt hại và phương pháp tính thiệt hại, giải quyết tranh chấp, giải thích thuật ngữ…
 
       - Quy định về Đăng ký các hợp đồng xuất, nhập khẩu công nghệ (2001) của Trung Quốc quy định:
 
          + Nội dung đăng ký hợp đồng: Mã số hợp đồng, tên hợp đồng, người cung cấp công nghệ, người nhận, nội dung chính của công nghệ, giá trị hợp đồng, phương thức thanh toán. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm tra nội dung của Hợp đồng và cấp giấy Chứng nhận Hợp đồng trong vòng (03) ngày làm việc.
          + Để nhập khẩu công nghệ hạn chế nhập khẩu, người nhập khẩu phải đệ trình đơn xin phép và các tài liệu kèm theo lên cơ quan có thẩm quyền. Việc xem xét đơn, và quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn thực hiện trong 30 ngày làm việc. Giấy chấp nhận là cơ sở cho việc đàm phám ký kết hợp đồng với bên giao công nghệ. Sau khi ký kết hợp đồng, người nhập khẩu công nghệ  phải nộp Bản hợp đồng cùng Giấy chấp nhận nhập khẩu để làm thủ tục đăng ký hợp đông CGCN cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau  03 ngày làm việc, Giấy chứng nhận hợp đồng được cấp và khi đó hợp đồng mới có hiệu lực. 
3. Biện pháp khuyến khích, thúc đẩy CGCN
        Hệ thống pháp luật về CGCN ở nhiều nước có xu hướng tập trung nhiều vào khuyến khích CGCN được tạo ra từ các viện nghiên cứu, trường đại học của nhà nước.         Về cụ thể, các nước có một số quy định như sau:
           
        - Luật thúc đẩy chuyển hóa thành quả khoa học và kỹ thuật (1996) của Trung Quốc quy định:
       + Đơn vị có thành quả khoa học kỹ thuật phải trích một tỷ lệ không nhỏ hơn 20% thu nhập có được từ việc chuyển giao các thành quả công vụ cho tác giả hoặc đồng tác giả và những người có đóng góp quan trọng trong việc hoàn thành và chuyển giao các kết quả nghiên cứu đó.
       + Doanh nghiệp cần trích ít nhất 5% lợi nhuận mới tăng thêm nhờ ứng dụng thành công công nghệ mới trong thời gian liên tục từ 3 đến 5 năm để thưởng cho những người có đóng góp quan trọng vào việc phát triển và ứng dụng công nghệ mới.
       + Người làm việc trong các công ty cổ phần có đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới được nhận thù lao và khen thưởng và được tính đổi thành cổ phần hoặc góp vốn theo quy định của Nhà nước.
    
   - Luật thúc đẩy chuyển giao công nghệ (2000) của Hàn Quốc quy định:
       + Cho phép các cơ quan tham gia CGCN được thế chấp, chuyển nhượng hoặc sử dụng thu lợi….những máy móc, thiết bị thuộc sở hữu Nhà nước bất kể những quy định của Luật về tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
       + Phân chia thu nhập cho tác giả công nghệ: Trưởng cơ quan nghiên cứu công phải chia cho tác giả một phần nhất định thu nhập do việc chuyển giao thành quả.
       + Chính phủ có thể phối hợp với cơ quan địa phương chỉ đạo việc xúc tiến CGCN….có thể hỗ trợ cho cơ quan quản lý địa phương những chi phí cần thiết.
       + Trưởng cơ quan hành chính trung ương liên quan hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp tham gia CGCN, cơ quan chuyên trách CGCN tư nhân, cơ quan đánh giá… từ quỹ thuộc sự quản lý của cơ quan.
       + Chính phủ hỗ trợ kinh phí cho đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn phuc vụ đánh giá công nghệ, tiếp thị,…
 
 - Luật về hạn chế thuế đặc biệt của Hàn Quốc quy định:
       + Miễn thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập trong thời gian 5 năm kể từ thời điểm lần đầu tiên thanh toán đối với tiền trả kỳ vụ theo hợp đồng li-xăng CGCN trong trường hợp công nghệ đó có đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy cạnh tranh quốc tế của các ngành công nghiệp trong nước, làm chuyển dịch cơ cấu công nghiệp.
 
       - Luật đổi mới công nghệ Stevenson-Wydler (1980) và các sửa đổi của Hoa Kỳ (Luật CGCN Liên bang 1986, Luật CGCN cạnh tranh quốc gia 1989, Luật tiến bộ và CGCN Quốc gia 1996, Luật thương mại hoá CGCN 2000) có một số quy định sau:
       + Lãnh đạo các cơ quan Liên bang phải chuyển giao kịp thời những thông tin KH&CN có được từ những hoạt động R&D do bang hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp tư nhân.
       + Phân chia tiền bản quyền và các khoản thu nhập khác từ CGCN:
       = Người đứng đầu các cơ quan, phòng thí nghiệm hoặc người được uỷ quyền sẽ trả cho tác giả sáng chế trước tiên là 2.000 USD, sau đó trả theo tỷ lệ 15% số tiền bản quyền hoặc các khoản thu được khác từ CGCN
       = Cơ quan, phòng thí nghiệm cần trích từ thu nhập từ CGCN để khuyến khích đội ngũ cán bộ không phải là tác giả sáng chế nhưng có những đóng góp quan trọng đối với việc tạo ra sáng chế đó;
       = Số tiền còn lại của tiền bản quyền hoặc các khoản tiền khác sẽ được chuyển cho phòng thí nghiệm nơi tạo ra sáng chế. Phòng thí nghiệm có quyền giữ và sử dụng trong 2 năm tài chính liên tiếp để chi cho hoạt động đào tạo nhân viên và nghiên cứu;
       = Các khoản tiền còn lại sau năm tài chính thứ hai phải chuyển cho Bộ tài chính;
       = Việc chi trả cho nhân viên theo quy định của mục này là khoản bồi dưỡng thêm, không ảnh hưởng đến tiền lương của nhân viên cũng như những phần thưởng khác của họ. Việc trả tiền cho người sáng chế nói trên vẫn tiếp tục sau khi người đó chuyển khỏi phòng thí nghiệm hoặc cơ quan. Việc chi trả, thanh toán theo mục này sẽ không vượt quá 150,000 USD/năm cho bất cứ cá nhân nào trừ khi Tổng thống có quyết định thưởng khác.
 
4. Dịch vụ chuyển giao công nghệ
Các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ, Nhật bản đều chú ý nhiều đến tăng cường hệ thống dịch vụ hỗ trợ CGCN thông qua các quy định về việc thành lập các tổ chức dịch vụ CGCN; đều hỗ trợ kinh phí thành lập các tổ chức dịch vụ CGCN, ví dụ: Trung tâm CGCN quốc gia, tổ chức đánh giá công nghệ, hiệp hội  công nghệ, văn phòng CGCN trong các tổ chức nghiên cứu công, tổ chức dịch vụ CGCN địa phương, v.v…         Về cụ thể, dịch vụ chuyển giao công nghệ tại một số nước được quy định như sau:          - Luật thúc đẩy chuyển hóa thành quả KHKT (1996) của Trung Quốc quy định:
       + Các đơn vị chuyên trách về giao dịch công nghệ được thành lập theo pháp luật, có thể được thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy chuyển hóa thành quả KHKT như: Giới thiệu các thành quả KHKT, cung cấp thông tin, tư vấn chuyển giao công nghệ, thực hiện các hoạt động thương mại hóa.
       + Các tổ chức trung gian, đại lý dịch vụ CGCN có thu phí phải có giấy phép hành nghệ theo quy định của Nhà nước. Những người làm tiếp thị trong các tổ chức này phải có giấy chứng nhận theo quy định hữu quan của Nhà nước.
 
       - Luật thúc đẩy chuyển giao công nghệ (2000) của Hàn Quốc quy định:
       + Trung tâm CGCN của Hàn Quốc là tổ chức có tư cách pháp nhân, thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ hỗ trợ CGCN, phát triển mạng lưới các tổ chức trung gian.
 
       + Thành lập tổ chức chuyên trách CGCN trong tổ chức nghiên cứu công: Trưởng cơ quan nghiên cứu công đủ những điều kiện quy định trong Sắc lênh của Tổng thống phải thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ CGCN. Chính phủ có thể hỗ trợ những hạng mục cần thiết.
 
       + Đăng ký công ty giao dịch công nghệ:  Những người có tri thức pháp luật về giao dịch công nghệ và những người có tri thức chuyên môn liên quan đến công nghệ có thể đăng ký tại Trung tâm CGCN với tư cách là công ty giao dịch công nghệ.
 
       + Đăng ký thông tin CGCN: Đối với thành quả nghiên cứu phát triển, cơ quan nghiên cứu công muốn chuyển giao công nghệ phải đăng ký nội dung công nghệ của mình tại Trung tâm CGCN, ngoại trừ trường hợp bí mật quốc gia…
 
IV. Dự thảo Luật chuyển giao công nghệ
1. Mục đích của việc ban hành luật
       - Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, nhanh chóng làm chủ các công nghệ mới, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp các doanh nghiệp tiếp cận được các công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh.
       - Tạo cơ sở pháp lý cho chuyển giao công nghệ, dich vụ chuyển giao công nghệ và biện pháp khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao công nghệ,
       - Tạo hành lang pháp lý thông thoáng, đặc biệt là về quyền, lợi ích, nghĩa vụ của  các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức, cá nhân khác tham gia chuyển giao và thương mại hoá công nghệ.
      - Tạo các chính sách hỗ trợ phù hợp với các quy định của WTO để thức đẩy việc đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng kinh tế có điều kiện KT-XH khó khăn và đặc biệt khó khăn.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng luật
       1. Thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về khuyến khích hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển  kinh tế - xã hội.
       2. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tự do thoả thuận của các bên tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ; Nhà nước chỉ can thiệp nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
       3. Tạo cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh tiếp thu, ứng dụng, làm chủ công nghệ nhập, nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo công nghệ của các doanh nghiệp; nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. 3. Nội dung cơ bản của dự thảo luật
Chương I. Những quy định chung, gồm 13 điều (từ 1 đến 13).
       - Quy định về phạm vi và đối tượng điều chỉnh; giải thích các thuật ngữ: công nghệ là qui trình, giải pháp, bí quyết để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm, có hoặc không có kèm theo công cụ, phương tiện; chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng từ bên có quyền chuyển giao sang bên nhận chuyển giao;...
       - Quy định các chính sách, đặc biệt là chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với phát triển nguồn nhân lực công nghệ và chính sách chuyển giao công nghệ cho nông thôn, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn; quy định các nội dung quản lý và phân công trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ;
       - Cụ thể hoá đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm: bí quyết, giải pháp, kỹ năng,...gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp mà đối tượng này có hoặc không có văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ;
       - Quy định quyền chuyển giao công nghệ là quyền của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu cho phép; và đối với công nghệ không được bảo hộ tại Việt Nam hoặc đã hết thời hạn bảo hộ thì tổ chức, cá nhân có công nghệ đó có quyền chuyển giao công nghệ;
       - Quy định cụ thể về 3 loại công nghệ: công nghệ khuyến khích chuyển giao (cao, sạch, tiêt kiệm năng lượng,...); công nghệ chuyển giao có điều kiện (có nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi trường, an ninh,...) và công nghệ không được chuyển giao (gây hại, hậu quả xấu đến xã hội, kinh tế); và quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong chuyển giao công nghệ (tiết lộ bí mật công nghệ, lừa dối, gian lận, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ,...). Chương II. Hợp đồng huyển giao công nghệ, gồm 14 điều (từ 14 đến 28).
       - Hợp đồng CGCN phải làm bằng văn bản hoặc bằng phương thức giao dịch điện tử, có bản tiếng Việt; nội dung hợp đồng có phần thoả thuận chính  giữa các bên về pham vi, đối tượng, hình thức chuyển giao,...và phần tự thoả thuận;
       - Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng do 2 bên thoả thuận bao gồm độc quyền hay không độc quyền, chuyển giao lại cho bên thứ ba, lĩnh vực sử dụng, quyền cải tiến công nghệ,...; hình thức chuyển giao: tài liệu kỹ thuật, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật;
       - Quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giao công nghệ và bên nhận công nghệ, việc cam kết thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng,...;
       - Giá và phương thức thanh toán do hai bên thoả thuận, có thể trả trước một phần và kết hợp với trả kỳ vụ hoặc trả gọn chia làm nhiều lần hoặc trả dưới hình thức góp vốn bằng giá trị công nghệ...
       - Quy định về chuyển giao công nghệ có điều kiện: bên nhận (trường hợp nhập công nghệ) và bên giao (trường hợp xuất công nghệ) phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xin giấy chấp thuận công nghệ; khi được chấp thuận thì mới tiến hành đàm phán với bên đối tác để ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ;
       - Quy định về đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ: các bên nộp bản hợp đồng chuyển giao công nghệ, giấy chứng nhận cho phép chuyển giao công nghệ có điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền để xin cấp giấy đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ và sau khi được cấp giấy đăng ký hợp đồng thì hợp đồng mới có hiệu lực.
       - Thẩm quyền cho phép thực hiện chuyển giao công nghệ có điều kiện: Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan để cấp giáy chấp thuận và giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ có điều kiện.
       - Căn cứ để cấp giấy chấp thuận công nghệ chuyển giao có điều kiện bao gồm: danh mục công nghệ chuyển giao có điều kiện, công nghệ không được chuyển giao và hành vi bị cấm trong chuyển giao mà luật pháp đã quy định.
       - Nội dung thẩm định hợp đồng chuyển giao công nghệ có điều kiện: thẩm định các chỉ tiêu, thông số của công nghệ,...so với các quy định về công nghệ không được chuyển giao, công nghệ chuyển giao có điều kiện, hành vi bị cấm.
       - Thời hạn cấp giấy chấp thuận công nghệ chuyển giao có điều kiện là 15 ngày làm việc; thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ có điều kiện là 10 ngày làm việc.
       - Đăng ký tự nguyện hợp đồng chuyển giao công nghệ: các hợp đồng không thuộc diện chuyển giao công nghệ có điều kiện có quyền đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm cơ sở cho việc hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật,...  
Chương III. Dịch vụ chuyển giao công nghệ, gồm 13 điều (từ 29 đến 41).
       - Các dịch vụ chuyển giao công nghệ bao gồm: môi giới, tư vấn, giám định, xúc tiến,...;các tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ phải đăng ký kinh doanh hoặc có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; các tổ chức; các nhân trong và ngoài nước đều được tham gia hoạt động dịch vụ chuyển giao công nghệ;
       - Điều kiện hoạt động của tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ chuyển giao công nghệ: có chức năng làm dịch vụ, có nhân lực và vật chất, kỹ thuật phù hợp;  điều kiện đối với giám định viên công nghệ: có trình độ đại học trở lên và chuyên môn phù hợp với lĩnh vực cần giám định, 3 năm làm việc trong lĩnh vực công nghệ cần thẩm định,...
       - Giám định công nghệ được thực hiện nếu một trong các bên nhận thấy công nghệ được chuyển giao không phù hợp với  các cam kết trong hợp đồng; chứng thư giám định là văn bản xác định các chỉ tiêu thực tế được chuyển giao; giá trị pháp lý của chứng thư chỉ có giá trị với bên yêu cầu giám định;
       - Giá trị pháp lý đối với các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ: nếu các bên đồng ý sử dụng một tổ chức giám định thì chứng thư có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên; chứng thư của một bên chỉ có giá trị cho bên đó, bên kia có quyền yêu cầu giám định laị; nếu kết quả giám định lại mà khác và tổ chức giám định ban đầu thừa nhận kết quả đó thì kết quả giám định lại có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên, trường hợp không thừa nhận thì các bên thoả thuận chọn một tổ chức giám định mới để giám định lại lần 2 và kết quả giám định có giá trị pháp lý với tất cả các bên.
       - Trường hợp công nghệ được chuyển giao có biểu hiện vi phạm sự cho phép của giấy chứng nhận chuyển giao công nghệ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu giám định bắt buộc đối với công nghệ đã được chuyển giao.
Chương IV. Biện pháp khuyến khích, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, gồm 12 điều (từ 42 đến 58).
       - Quy định về chính sách phát triển thị trường công nghệ của nhà nước; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhà nước trong hoạt động chuyển giao công nghệ cho vùng nông thôn, vùng có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn; trách nhiệm của cơ quan chuyên môn ở đại phương (tạo điều kiện, kiểm tra), các tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc phổ biến giống cây, con ở địa phương (hướng dẫn, bồi thường thiệt hại);
       - Chính phủ, các bộ phải có chương trình ứng dụng, đổi mới công nghệ nhằm đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; phát triển công nghệ ở nông thôn, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn; thành lập quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ quốc gia để cho vay và tài trợ cho hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp vừa và nhỏ, vùng được khuyển khích chuyển giao công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ.
       - Nhà nước giao quyền đại diện chủ sở hữu cho các tổ chức công lập tạo ra kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ bằng ngân sách nhà nước. Đại diện chủ sở hữu được quyền sử dụng, quyền chuyển giao đối với kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ.
- Đại diện chủ sở hữu kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ có nghĩa vụ sử dụng công nghệ để đáp ứng các yêu cầu cấp thiết: an ninh, quốc phòng, phòng bệnh, chữa bệnh,.... Trường hợp không đáp ứng được yêu cầu thì cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định chuyển giao quyền sử dụng kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ cho tổ chức khác để đáp ứng yêu cầu trên. 
- Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ được đánh giá nghiệm thu, đại diện chủ sở hữu kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ không triển khai sử dụng hoặc chuyển giao thì cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định chuyển giao quyền sử dụng kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác để ứng dụng vào sản xuất, đời sống.
- Các tổ chức khoa học và công nghệ công lập được Nhà nước giao vốn có quyền thế chấp, cầm cố tài sản thuộc vốn nhà nước giao để vay vốn thực hiện chuyển giao.
- Tác giả của các kết quả nghiên cứu (sử dụng ngân sách nhà nước; không có văn bằng SHCN) được hưởng tối thiểu từ 15% trở lên tiền làm lợi trong thời hạn tối đa là 10 năm từ việc sử dụng công nghệ hoặc được hưởng tối thiểu từ 30% trở lên số tiền thanh toán cho mỗi lần chuyển giao công nghệ.
        - Đại diện chủ sở hữu kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ sau khi trả thù lao cho tác giả được sử dụng phần còn lại để đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, phúc lợi và khen thưởng của tổ chức đại diện chủ sở hữu.
        - Tổ chức, cá nhân môi giới cho việc chuyển giao công nghệ tạo ra bằng ngân sách nhà nước được hưởng tối đa đến 10% số tiền thanh toán chuyển giao công nghệ.
- Tổ chức, cá nhân có quyền chuyển giao công nghệ được góp vốn bằng công nghệ vào dự án đầu tư.
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam khi chuyển giao công nghệ ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn được miễn thuế thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ đó; tổ chức, cá nhân tài trợ cho các viện, trường đại học để nghiên cứu, sáng chế công nghệ mới hoặc cải tiến công nghệ dưới hình thức cho, tặng thì phần tài trợ được trừ vào thu nhập chịu thuế.
- Kinh phí mà doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu triển khai ứng dụng kỹ thuật tiến bộ và đổi mới công nghệ được tính vào chi phí sản xuất, nhưng không quá 2% doanh thu; doanh nghiệp được trích đến 10% lợi nhuận trước thuế hằng năm để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; trong thời hạn 5 năm nếu quỹ không được sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích thì phải nộp lại phần thuế và lãi phát sinh từ khoản tiền đó vào ngân sách nhà nước.
 - Doanh nghiệp tiếp nhận các công nghệ khuyến khích chuyển giao, doanh nghiệp đóng trên địa bàn có điều kiện khó khăn, đặc biệt khó khăn tiếp nhận công nghệ tạo thành tài sản cố định được áp dụng chế độ khấu hao nhanh và mức khấu hao tối đa là 2 lần mức khấu hao theo chế độ khấu hao tài sản cố định.
- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài thành lập cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ, tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ, sàn giao dịch công nghệ, chợ công nghệ; thành lập cơ sở trình diễn ứng dụng, chuyển giao công nghệ ở vùng nông thôn, miền núi.
  - Nhà nước đặt các giải thưởng, hình thức khen thưởng về tinh thần và vật chất cho tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
  - Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm tham gia tìm kiếm thông tin công nghệ, thông tin chuyên gia công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện thuận lợi  xúc tiến chuyển giao công nghệ.
  - Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có trách nhiệm: hằng năm công bố danh mục công nghệ được tạo ra có sử dụng ngân sách nhà nước, trừ các công nghệ thuộc danh mục bí mật; hỗ trợ tổ chức, cá nhân công bố công nghệ mới.
   - Doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức đào tạo đại học, cao đẳng và các cơ sở đào tạo khác hằng năm có trách nhiệm báo cáo tình hình đổi mới công nghệ với cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Chương V. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm, gồm 4 điều (từ  59 đến 62).
        - Việc khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động chuyển giao công nghệ được thực hiện theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
        - Người nào có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ cản trở hoạt động chuyển giao công nghệ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, bồi thường theo quy định của pháp luật.
       - Trường hợp phát sinh tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng dịch vụ chuyển giao công nghệ thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện bằng các hình thức thương lượng, hoà giải, trọng tài, toà án
       - Các loại chế tài đối với việc vi phạm các quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ được áp dụng theo các hình thức đã được pháp luật quy định.
Chương VI. Điều khoản thi hành, gồm 3 điều (từ 63 đến 65)
       - Các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác nhận đăng ký hoặc phê duyệt trước khi Luật này có hiệu lực vẫn tiếp tục có hiệu lực đến hết thời hạn hiệu lực hợp đồng.
       - Hồ sơ đề nghị đăng ký hoặc phê duyệt hợp đồng chuyển giao công nghệ đã nộp cho các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa được giải quyết thì áp dụng theo Luật này.
       - Tổ chức thực hiện dịch vụ khoa học và công nghệ chưa đáp ứng các điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này thì trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Luật này có hiệu lực các tổ chức này phải tiến hành đăng ký lại hoạt động.

Hà nội, 2/8/06

Các văn bản liên quan