VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 132/2020/NĐ-CP về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết
VCCI_Góp ý Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam
Kính gửi: Bộ Ngoại giao
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến góp ý đối với Dự thảo Quyết định sửa đổi, điều chỉnh một số điều của Quyết định 06/2020/NĐ-CP ngày 21/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Dự thảo) như sau:
Việc soạn thảo, ban hành Dự thảo theo hướng phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính, dự báo sẽ tạo thuận lợi cho các đối tượng thực hiện thủ tục xin cấp phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. VCCI hoan nghênh và đánh giá cao tinh thần cải cách thể hiện trong Dự thảo. Để hoàn thiện Dự thảo, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:
- Về vấn đề phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính
Theo quy định tại Quyết định 06/2020/QĐ-TTg (sau đây gọi tắt là Quyết định 06) có hai thủ tục liên quan đến việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, đó là: 1) đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế; và 2) tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế.
Đối với việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, thẩm quyền cho phép thuộc Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ, cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh tùy thuộc vào loại hội nghị, hội thảo quốc tế và chủ thể tổ chức.
Đối với đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, Điều 6 Quyết định 06 quy định “nếu đơn vị tổ chức cần xin chủ trương để đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, đơn vị tổ chức và cơ quan của người có thẩm quyền thực hiện việc xin chủ trương đăng cai theo quy trình và thẩm quyền quy định tại Điều 3 và Điều 5 Quyết định này”, “Hồ sơ xin chủ trương cần nêu lý do, mục đích, chủ đề, dự kiến thành phần tham dự và dự kiến nguồn kinh phí”. Việc thẩm định chủ trương đăng cai tương tự như thẩm định cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế.
Thực hiện Quyết định 1015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Dự thảo sửa đổi thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính theo hướng phân cấp thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế theo hai phương án:
- Phương án 1: Quy định bám sát theo nội dung của Quyết định 1015/QĐ-TTg đó là phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính cho cả hai thủ tục: đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế và xin phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Trong đó ở địa phương, “người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” có thẩm quyền: (1) cho chủ trương đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế kèm theo một số điều kiện: (i) không có nội dung nhạy cảm, phức tạp; (ii) đã có ý kiến đồng ý về chủ trương của cơ quan Đảng liên quan; (2) quyết định việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của cơ quan mình, các cơ quan, tổ chức Việt Nam và nước ngoài do UBND cấp tỉnh cho phép hoạt động trừ một số trường hợp;
- Phương án 2: Không quy định rõ về phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính đối với thủ tục “đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế” mà chỉ quy định về phân cấp thủ tục cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Trong đó ở địa phương, “người đứng đầu cơ quan chuyên môn phụ trách đối ngoại thuộc UBND cấp tỉnh” quyết định việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của cơ quan mình, các cơ quan, tổ chức Việt Nam và nước ngoài do UBND cấp tỉnh cho phép hoạt động trừ một số trường hợp.
Về cơ bản, cả hai phương án của Dự thảo đều đã thực hiện phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục cho phép hội nghị, hội thảo quốc tế ở cấp địa phương, tuy nhiên cả hai phương án đều có những điểm cần được cân nhắc, xem xét để đảm bảo rõ ràng, cụ thể hơn:
- Đối với Phương án 1:
– Dự thảo bổ sung cụm từ “chủ trương đăng cai” vào phần tiêu đề “thẩm quyền cho chủ trương đăng cai và cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế”. Nhưng, khoản 1 lại chỉ quy định “Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế”, trong khi khoản 2, khoản 3, khoản 4 quy định về thẩm quyền cho chủ trương đăng cai và cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch ỦBND cấp tỉnh, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp tỉnh. Như vậy, quy định này đang chưa rõ, Thủ tướng Chính phủ sẽ cho chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế nào? Những hội nghị, hội thảo quốc tế thuộc thẩm quyền cho phép của Thủ tướng Chính phủ, đơn vị muốn xin chủ trương đăng cai thì xin phép ở đâu?
– Khoản 4 quy định người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp tỉnh “cho chủ trương đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung góp ý thống nhất của các cơ quan liên quan, đồng thời đáp ứng được một trong hai tiêu chí: (i) không có nội dung nhạy cảm, phức tạp; (ii) đã có ý kiến đồng ý về chủ trương của cơ quan Đảng liên quan”. Quy định này đang chưa rõ ở các điểm:
+ Tương tự như lý giải trong Tờ trình, khái niệm “không có nội dung nhạy cảm, phức tạp” đang chưa rõ;
+ Các hội nghị, hội thảo quốc tế xin chủ trương này là những hội nghị, hội thảo quốc tế thuộc thẩm quyền cho phép tổ chức của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp tỉnh hay là cả những hội nghị, hội thảo thuộc thẩm quyền cho phép của Chủ tịch UBND cấp tỉnh?
+ Theo quy định tại điểm a khoản 3, Chủ tịch UBND cấp tỉnh cho chủ trương đăng cai đối với những trường hợp không đáp ứng điều kiện phân cấp trên. Như vậy có thể đưa đến cách hiểu, một số trường hợp hội nghị, hội thảo thuộc thẩm quyền cho phép của Chủ tịch UBND, nhưng sẽ do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp tỉnh cho chủ trương đăng cai, nếu hội nghị, hội thảo đó “không có nội dung nhạy cảm, phức tạp” hoặc “đã có ý kiến đồng ý về chủ trương của cơ quan Đảng liên quan”. Nếu như vậy thì cách thức thiết kế quy định này chưa thực sự hợp lý về phân cấp thẩm quyền quản lý, khi người ở cơ quan cấp dưới lại cho chủ trương đăng cai tổ chức, trong khi Chủ tịch UBND lại cấp giấy phép tổ chức hội nghị, hội thảo.
Tóm lại, Phương án 1 đang có những quy định chưa đủ rõ ràng về thẩm quyền cho phép đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế. Việc phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý thuộc UBND cấp tỉnh là rất khó để xác định loại hội nghị, hội thảo được phân cấp, bởi vì định lượng được “nội dung dung nhạy cảm, phức tạp” là không hề dễ dàng.
- Đối với Phương án 2
Phương án này, Dự thảo không quy định về thẩm quyền cho chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế mà chỉ điều chỉnh quy định về phân cấp thẩm quyền cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo đối với người đứng đầu cơ quan chuyên môn phụ trách đối ngoại thuộc UBND cấp tỉnh. Như vậy, quy định về đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế sẽ vẫn thực hiện theo cách thức dẫn chiếu quy định tại Điều 6 Quyết định 06.
Tuy nhiên, hiện nay Điều 6 Quyết định 06 đang quy định: “Nếu đơn vị tổ chức cần xin chủ trương để đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, đơn vị tổ chức và cơ quan của người có thẩm quyền thực hiện việc xin chủ trương đăng cai theo quy trình và thẩm quyền quy định tại Điều 3 và Điều 5 Quyết định này.”. Quy định này, nếu đối chiếu với Điều 3 thì có thể đưa đến cách hiểu: người có thẩm quyền nào cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế sẽ có thẩm quyền đồng ý chủ trương đăng cai tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế. Nếu theo cách hiểu này thì quy định tại Phương án 2 là rõ ràng hơn Phương án 1 về thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính
Tuy nhiên, nếu chọn theo Phương án 2, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định tại Quyết định 06 để rõ ràng, cụ thể hơn về thủ tục cho chủ trương đăng cai hội nghị, hội thảo quốc tế:
– Bổ sung cụm từ “cho chủ trương đăng cai” vào Điều 3 như sau:
+ Tiêu đề: Thẩm quyền cho chủ trương đăng cai và cho phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
+ Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương đăng cai và cho phép tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế sau:
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ cho chủ trương đăng cai và quyết định việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của cơ quan mình ….
+ Chủ tịch UBND cấp tỉnh cho chủ trương đăng cai và quyết định việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế do UBND cấp tỉnh đó chủ trì tổ chức
+ Người đứng đầu cơ quan chuyên môn phụ trách đối ngoại thuộc UBND cấp tỉnh cho chủ trương đăng cai và quyết định việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của cơ quan mình, các cơ quan, tổ chức Việt Nam và nước ngoài do UBND cấp tỉnh cho phép hoạt động trừ trường hợp quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này”
– Sửa đổi khoản 2 Điều 6 Quyết định về hồ sơ xin chủ trương theo hướng: Ban hành mẫu Đơn đề nghị xin chủ trương.
- Về những nội dung khác của Quyết định 06
Bên cạnh việc phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính thì để bám sát quan điểm chỉ đạo “Sửa đổi những quy định chưa phù hợp, bổ sung, cập nhật những điều chỉnh định hướng phân cấp, phân quyền trong thủ tục hành chính dựa trên nguyên tắc vận dụng hợp lý các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và sự phù hợp với tình hình thực tiễn”, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc xem xét sửa đổi thêm một số quy định khác của Quyết định 06:
- Về đối tượng áp dụng (Điều 1)
Điểm b khoản 2 Điều 1 Quyết định 06 quy định “Việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thực hiện theo quy định của Đảng”. Như vậy, những tổ chức chính trị – xã hội này sẽ không áp dụng quy định về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế theo Quyết định 06 mà thực hiện theo quy định của Đảng.
Hiện nay, các tổ chức có Đảng đoàn (như Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, VCCI; …) đang được quản lý các hoạt động đối ngoại, trong đó có tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, theo quy định của Đảng. Trước thời điểm Quyết định 06 có hiệu lực, các tổ chức này đã thực hiện nghiêm túc các hội nghị, hội thảo quốc tế theo quy định của Đảng và tự chịu trách nhiệm về mặt tổ chức, thực hiện hoạt động báo cáo liên quan cho các cơ quan về phía Đảng.
Đối với các tổ chức này, theo chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao, ví dụ như xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, kết nối giao thương với nước ngoài … các hoạt động có yếu tố quốc tế là rất nhiều. Việc yêu cầu phải thực hiện thủ tục đăng cai, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế theo Quyết định 06 khiến cho việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của các tổ chức này chịu sự ràng buộc và phải thực hiện hai lần thủ tục xin phép, tạo gánh nặng về thủ tục hành chính. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung các tổ chức có Đảng đoàn thuộc đối tượng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 Quyết định 06.
- Về giải thích từ ngữ (Điều 2)
Khoản 1 Điều 2 Quyết định 06 “Hội nghị, hội thảo quốc tế có yếu tố nước ngoài, được tổ chức theo hình thức gặp gỡ trực tiếp trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc theo hình thức trực tuyến với ít nhất một đầu cầu thuộc lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: a) Hội nghị, hội thảo do các cơ quan, tổ chức Việt Nam tổ chức có sự tham gia hoặc có nhận tài trợ của nước ngoài; b) Hội nghị, hội thảo do các tổ chức nước ngoài tổ chức.
Quy định “sự tham gia” của nước ngoài là phạm vi khá rộng. Trên thực tế, trong một số trường hợp, các hội nghị, hội thảo không có tài trợ nước ngoài, khi tổ chức, mời các đại biểu công khai, rộng rãi (đăng tải trên website). Các đại biểu đến tham dự và phát biểu, trong đó có người nước ngoài làm việc tại tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam, các tổ chức quốc tế … Nếu theo quy định trên, “có sự tham gia” của nước ngoài, các hội thảo, hội nghị này sẽ được xem là hội nghị, hội thảo quốc tế và phải đáp ứng các yêu cầu, trình tự, thủ tục của Quyết định 06. Điều này là chưa thực sự hợp lý vì việc tham gia của các đại biểu nước ngoài trong trường hợp trên, đơn vị tổ chức không thể kiểm soát được.
Để phù hợp với các mục tiêu quản lý và tạo thuận lợi cho các đơn vị tổ chức hội thảo, hội nghị, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 theo hướng các hội nghị, hội thảo do cơ quan, tổ chức Việt Nam tổ chức có mời báo cáo viên/diễn giả là người nước ngoài tham dự hoặc có nhận tài trợ của nước ngoài.
- Về quy trình xin phép và tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (Điều 4)
Một trong những mục tiêu khi sửa đổi Quyết định 06 là “tạo thuận lợi hơn nữa cho công tác tổ chức, quản lý hội nghị hội thảo quốc tế tại Việt Nam”. Bên cạnh việc phân cấp giải quyết thủ tục hành chính thì việc xem xét, sửa đổi quy trình xin phép cũng sẽ góp phần tạo thuận lợi rất lớn cho công tác tổ chức, quản lý hội thảo quốc tế. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét sửa đổi về quy trình xin phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế quy định tại Quyết định 06.
- Về thời hạn phải xin phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Điểm a khoản 1 Điều 4 Quyết định 06 quy định đơn vị tổ chức phải gửi đầy đủ hồ sơ xin phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế cho cơ quan của người có thẩm quyền ít nhất 30 ngày đối với hội nghị, hội thảo quốc tế thuộc thẩm quyền quyết định của người có thẩm quyền. Việc yêu cầu thời hạn này chỉ phù hợp đối với những hội nghị, hội thảo đã có kế hoạch từ trước. Còn những hội thảo, hội nghị trong trường hợp đột xuất, do yêu cầu của tình hình thực tế phát sinh, không nằm trong kế hoạch ban đầu thì rất khó để đáp ứng được thời hạn 30 ngày. Trên thực tế triển khai thời gian qua, với chức năng, nhiệm vụ xúc tiến thương mại, đầu tư, tham gia góp ý xây dựng chính sách, VCCI có rất nhiều hoạt động có yếu tố nước ngoài phát sinh nằm ngoài kế hoạch phê duyệt từ đầu năm, gặp khó khăn trong thủ tục xin phép vì không thể đáp ứng được điều kiện về thời hạn xin phép ít nhất 30 ngày.
Để đảm bảo phù hợp với thực tế, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng: Đối với những sự kiện thuần túy là xúc tiến thương mại, đầu tư, kết nối giao thương … phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị tổ chức thì thời hạn này có thể rút ngắn từ 10-15 ngày. Đồng thời điều chỉnh lại thời gian thẩm định rút ngắn tương ứng.
- Về thời gian giải quyết thủ tục
Quyết định 06 không quy định rõ thời gian giải quyết thủ tục cấp phép tổ chức hội nghị, hội thảo, cụ thể:
+ Không quy định thời hạn xem xét tính hợp lệ và đầy đủ của hồ sơ. Điều này dẫn tới tình trạng thời hạn giải quyết thủ tục kéo dài vì thời gian tính để thẩm định căn cứ vào ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, trong khi thời gian xem xét, yêu cầu bổ sung hồ sơ của cơ quan giải quyết thủ tục lại không rõ, có thể kéo dài từ thời điểm nhận hồ sơ;
+ Không quy định phải lấy ý kiến các cơ quan liên quan bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ;
+ Không quy định thời hạn thẩm định hồ sơ là bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
Mặt khác, Điều 5 Quyết định 06 quy định thời hạn để các cơ quan lấy ý kiến trả lời văn bản là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị là quá dài.
Việc không quy định rõ về thời hạn giải quyết thủ tục là chưa phù hợp về yêu cầu của quy định về thủ tục hành chính và khiến cho quy trình này bị kéo dài, gây khó khăn cho các đơn vị tổ chức hội nghị, hội thảo.
Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể thời gian giải quyết thủ tục hành chính cấp phép tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (thời gian xem xét tính hợp lệ của hồ sơ (khoảng 02 ngày), thời gian trả lời chấp thuận hoặc không chấp thuận việc tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ (khoảng 10- 15 ngày); rút ngắn thời gian lấy ý kiến của các cơ quan liên quan (khoảng 05-07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị).
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Quyết định sửa đổi, điều chỉnh một số điều của Quyết định 06/2020/NĐ-CP ngày 21/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.