Góp ý của Hiệp hội Ngân hàng

Thứ Sáu 14:42 26-05-2006
1. Về một số khái niệm (điều 3)

Tại khoản 1 điều 3: đề nghị xem lại cụm từ “hình thành tài sản” vì có những hoạt động đầu tư nó không hình thành tài sản như đào tạo, nếu quy định như dự thảo lại không hình thành tài sản thì không gọi đầu tư. Vì vậy, đề nghị bỏ cụm từ này và sửa lại “đầu tư…để tiến hành các…”.

2. Về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư

Về nội dung này chúng tôi hoàn toàn nhất trí với dự thảo, vì Luật đầu tư quy định chung nhất quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư còn quyền và nghĩa vụ cụ thể của các hình thức đầu tư theo lĩnh vực có luật chuyên ngành quy định chúng ta không thể đưa chi tiết vào luật này.

3. Về các lĩnh vực và địa bàn đầu tư

Nội dung quy định ở tại các điều từ 27 – 31 của dự thảo, chúng tôi hoàn toàn không thể nói một số lĩnh vực trùng lắp với luật chuyên ngành vì đây là luật chung còn luật chuyên ngành là đi vào cụ thể từng lĩnh vực, từng ngành. Luật chung không thể quy định chi tiết và ngược lại luật chuyên ngành không thể quy định chung.

4. Về ưu đãi đầu tư

Vấn đề này chúng tôi không đồng tình với việc quy định ưu đãi vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đầu tư, vì trong quá trình đầu tư có thể có những thay đổi, nếu ghi những ưu đãi vào giấy chứng nhận sẽ gặp khó khăn. Các nhà đầu tư vào địa điểm nào lĩnh vực nào thì ưu đãi về đầu tư đã có. Nhà đầu tư đến các cơ quan chức năng có liên để nghiên cứu giải quyết ưu đãi đầu tư.

Theo chúng tôi không nên phân biệt đối xử với các nhà đầu tư khi họ cùng có dự án đầu tư vào lĩnh vực và đại bàn khó khăn, ưu đãi đầu tư như nhau.

5. Phân loại dự án đầu tư và thủ tục đầu tư từ điều 45 đến điều 53

Vấn đề này chúng tôi đồng tình với dự thảo, phân loại dự án chúng ta mới có quy định các thủ tục quản lý về đầu tư. Cơ quan quản lý đầu tư chỉ làm thủ tục đối với loại dự án 2 và 3, loại 1 nhà đầu tư đăng ký.

6. Về giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đầu tư

Quan điểm của chúng tôi đây là 2 nội dung khác nhau, giấy chứng nhận đầu tư là để các nhà đầu tư tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là chứng nhận cho nhà đầu tư tổ chức kinh doanh khi dự án đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng theo mục tiêu của dự án. Do đó tách làm 2 giấy, có nhà đầu tư khi hình thành họ chuyển giao cho người khác kinh doanh.

7. Về triển khai thực hiện dự án đầu tư

Vấn đề này chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến những vấn đề cụ thể triển khai thực hiện dự án đầu tư đã có luật chuyên ngành, ở đây chỉ nêu 1 số vấn đề có tình nguyên tắc.

8. Về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước

Về vấn đề này chúng tôi cho rằng để công bằng trong đầu tư giữa các nhà đầu tư vốn nhà nước, vốn tư nhân trong nước, ngoài nước khi thực hiện dự án đầu tư thì thực hiện như nhau, không có chương này. Thêm chương này tạo nên sự không bình đẳng trong đầu tư.

9. Vấn đề thanh tra hoạt động đầu tư

Theo quy định tại khoản 1 điều 86 thì thanh tra đầu tư là thanh tra chuyên ngành. Đề nghị làm rõ thanh tra đầu tư là thanh tra chuyên ngành do ai quản lý. Thanh tra chuyên ngành về hoạt động đầu tư không nằm trong cơ quan quản lý nhà nuớc về đầu tư.

Do đó cần xem xét lại quy định tại khoản 4 điều 87, theo quy định tại khoản 4 trái với quy định của luật khiếu nại và tố cáo.

Các văn bản liên quan