VIFA: Luật Đầu tư chưa khuyến khích đầu tư

Thứ Sáu 13:46 26-05-2006
VAFI: Dự thảo Luật Đầu tư chung chưa khuyến khích đầu tư

11:54' 28/07/2005 (GMT+7)Theo VietNamnet

Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có ý kiến đóng góp về dự thảo Luật Đầu tư chung. VAFI cho rằng, dự thảo luật vẫn chưa thể hiện tinh thần khuyến khích đầu tư, trái lại còn cản trở đầu tư, hạn chế quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
Ông Lý Tài Luận, chủ tịch Hiệp hội cho rằng Luật Khuyến khích đầu tư hiện hành tuy còn vài điểm hạn chế nhưng thậm chí còn thông thoáng hơn nhiều so với dự thảo Luật Đầu tư chung. VAFI e ngại rằng nếu dự thảo này được chấp nhận thông qua thì có hàng ngàn doanh nghiệp trong nước sẽ phải làm thêm nhiều công việc (do Luật mới qui định) phát sinh rất tốn kém, rất mất thời gian, có khi mất cơ hội kinh doanh. Điều đáng nói là những công việc đó không đem lại lợi ích cho nhà nước , cho người dân mà chỉ phát sinh tình trạng quan liêu giấy tờ.
Theo ý kiến nhận xét chung của VAFI, dự thảo Luật đưa ra nhiều qui định trùng lắp với các Luật chuyên ngành, có khi chồng chéo, điều đó là không cần thiết và chỉ làm phức tạp về nội dung của Dự thảo Luật.
Dự thảo Luật cần phải được xây dựng để tạo lập 1 môi trường đầu tư thật thông thoáng. Việc cải thiện được môi trường đầu tư hấp dẫn mới là ưu đãi lớn nhất, cơ bản nhất và có giá trị gia tăng gấp ngàn lần các ưu đãi khác mà Nhà nước đưa ra. Công tác xúc tiến đầu tư , hỗ trợ tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đào tạo.... của Nhà nước chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi mà môi trường đầu tư có thay đổi đáng kể.

Đề nghị bỏ Giấy phép ưu đãi đầu tư

Theo ý kiến của VAFI, dự thảo Luật nên bỏ giấy phép ưu đãi đầu tư. Việc quy định trước về ưu đãi đầu tư là không thể sát thực vì trong quá trình thực hiện dự án đầu tư thường có sự thay đổi về số lao động, về tình hình triển khai dự án, về mục tiêu của dự án…. Thự tế, bước quyết định xét ưu đãi cuối cùng là cơ quan thuế và chỉ có cơ quan thuế mới nắm được chính xác, cụ thể về tình hình tài chính doanh nghiệp, về các hoạt động đầu tư và giám sát được việc thực hiện ưu đãi đầu tư.
Do vậy, Luật và văn bản dưới Luật chỉ nên quy định các điều kiện ưu đãi và cơ quan Thuế căn cứ vào đó để thực hiện theo qui định của pháp luật về thuế, quản lý thu thuế, không cần phải qua các khâu như: Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hay Sở Kế hoạch và Đầu tư… để cấp phép ưu đãi đầu tư. Việc cải cách hành chính này sẽ làm giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo được công tác quản lý nhà nước về thực hiện ưu đãi thuế.
Từ trước tới nay nhà nước có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, coi doanh nghiệp cổ phần hoá như doanh nghiệp thành lập mới và được hưởng các khoản ưu đãi như việc lập dự án đầu tư mới. Mấy năm trước có duy trì việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp cổ phần hoá. Tuy nhiên, kể từ khi nghị định 64 ra đời từ năm 1999, bãi bỏ việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư và quy định các doanh nghiệp cổ phần hoá nếu hội đủ điều kiện về ưu đãi thì làm việc với cơ quan thuế địa phương. Quy định này đã làm giảm rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp, giảm thời gian xin giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư từ 2-4 tháng.

Khó xác định tính chất quan trọng của dự án qua quy mô vốn

Về vấn đề xác định dự án đầu tư quan trọng, VAFI đề nghị không nên quy định dự án có quy mô vốn lớn là dự án quan trọng quốc gia mà chỉ nên quy định về tính chất của dự án. Việc quy định dự án đầu tư từ các nguồn vốn khác từ 20.000 tỷ đồng trở lên là dự án quan trọng quốc gia không có cơ sở thuyết phục. Đối với các nước khu vực dự án vài tỷ đô la trong những lĩnh vực kinh doanh thông thường là chuyện bình thường, với Việt Nam có thể cũng sẽ xảy ra trong vài năm tới với khu vực tư nhân như đầu tư vào các nhà máy điện, đầu tư vào cầu đường, đầu tư vào các khu đô thị mới…
Tương tự, điều khoản quy định dự án không sử dụng nguồn vốn nhà nước có quy mô trên 800 tỷ đồng ở lĩnh vực năng lượng, xi măng là dự án quan trọng là chưa thoả đáng (điều 51). Ví dụ nhà đầu tư muốn xây dựng nhà máy điện quy mô vừa khoảng ngàn tỷ là họ phải làm việc với Tổng công ty Điện lực để ký hợp đồng mua bán giá điện. Với quy mô trên 800 tỷ đồng cho một nhà máy điện không thể coi là một dự án quan trọng được.
Tương tự, việc quy định kinh doanh vận tải đường biển là dự án quan trọng đối với khu vực tư nhân là không thoả đáng, không phù hợp với Luật Hàng Hải. Chẳng nhẽ mua một con tầu cũng phải xin phép Chính phủ? Các dự án trong ngành bảo hiểm, ngân hàng nên để tuân theo luật chuyên ngành. Về dự án trong ngành Tài chính, dự thảo quy định hết sức chung chung. Dịch vụ Tài chính còn bao gồm dịch vụ kiểm toán, dịch vụ kế toán, dịch vụ thẩm định giá, dịch vụ đòi nợ… Đây là những dịch vụ hết sức thông thường và không thể coi là những dự án quan trọng được.
Với điều khoản xác định dự án không sử dụng vốn nhà nước có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng trở lên thì coi là dự án phổ thông có điều kiện (Điều 52, điểm c) là không có căn cứ. Đây có thể sẽ biến thành cơ chế xin-cho trong việc cấp phép đầu tư. Khi thiết lập quản lý nhà nước bằng giấy phép đối với dự án đầu tư thì cơ quan soạn thảo văn bản phải chứng minh được lý do.
Tương tự, việc quy định các dự án phổ thông phải đăng ký đầu tư để nhận giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là một hình thức cấp giấy phép đầu tư, duy trì cơ chế xin-cho. Từ trước tới nay các doanh nghiệp thực hiện theo Luật Doanh nghiệp không phải xin giấy chứng nhận đầu tư từ cơ quan nhà nước. Việc duy trì giấy chứng nhận đầu tư sẽ ngăn cản quyền hạn của doanh nghiệp. Nếu thực hiện điều này thì môi trường đầu tư sẽ bị bóp méo bởi nạn công quyền, hành chính quan liêu... Về phía doanh nghiệp cũng không cần giấy chứng nhận đăng ký đầu tư để làm gì.
Việc quy định điều chỉnh dự án trong giấy chứng nhận đăng ký đầu tư phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, theo VAFI cũng là vô lý vì đó là quyền của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ phải đăng ký đầu tư mà khi điều chỉnh dự án lại phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan soạn thảo muốn duy trì điều này thì phải chứng minh là tại sao phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước?

Thanh tra đầu tư: Cần quy định nội dung cụ thể

Theo nhận xét của VAFI, các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước còn mơ hồ. Quy định công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, đánh giá hiệu quả đầu tư còn quá chung chung và trùng lặp. VAFI cho rằng cần xác định cụ thể thanh tra đầu tư gồm những nội dung gì? Cơ quan nhà nước có khả năng thực hiện việc đánh giá hiệu quả của từng dự án đầu tư được hay không và vì mục đích gì?
Riêng về vấn đề thanh tra đầu tư, nội dung cần cụ thể hơn. Hiện nay, có quá nhiều cơ quan nhà nước vào thanh tra doanh nghiệp như Tài chính, Địa chính, Môi trường, Cứu hoả, Lao động, Xây dựng, Công an, Thanh tra.
Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá cho thấy trước cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có rất nhiều cơ quan chủ quản, sau cổ phần hoá các cơ quan đại diện vốn nhà nước giảm vai trò quản lý. Rất nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa thay đổi bộ máy quản lý nhưng đã hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều. Điều này chứng tỏ càng ít cơ quan quản lý nhà nước thì doanh nghiệp càng phát triển.
Tóm lại, cần xác định rõ thanh tra đầu tư thực hiện những công việc gì tại doanh nghiệp để bảo đảm môi trường đầu tư thông thoáng, lành mạnh và đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư.

Các văn bản liên quan