VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị quyết quy định mức chi đối với một số nội dung chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
VCCI_Góp ý Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng
Kính gửi: Bộ Quốc phòng
Trả lời Công văn số 1607/BQP-VP của Bộ Quốc phòng về việc đề nghị góp ý Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến ban đầu như sau:
Về cơ bản, các đề xuất tại Dự thảo là hợp lý, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi hơn nữa, đề nghị Ban soạn thảo xem xét, cân nhắc một số điểm sau:
I. Lĩnh vực mật mã dân sự
- Về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự
Dự thảo đề xuất bỏ một số giấy tờ trong hồ sơ, giảm số lượng hồ sơ, giảm thời hạn giải quyết trong các thủ tục liên quan đến Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự. Những đề xuất này thể hiện được tinh thần cải cách, sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục.
Tuy nhiên, liên quan đến kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự, đề nghị đánh giá lại một số điều kiện kinh doanh của lĩnh vực này để có thể cắt giảm, đơn giản hóa hoặc quy định rõ ràng hơn. Cụ thể, cần xem xét một số điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật An toàn thông tin mạng như sau:
- “Có hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất phù hợp với quy mô cung cấp sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự” (điểm b): Quy định này vừa chưa đủ rõ ràng (không rõ cơ sở vật vất, trang thiết bị như thế nào thì phù hợp với từng loại quy mô), vừa chưa thể hiện tính đặc thù (không rõ yêu cầu điều kiện này nhằm hướng tới mục tiêu quản lý nào?). Mặt khác, trong Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự cũng không có tài liệu nào thể hiện hình thức của điều kiện này, vì vậy không rõ cơ quan quản lý sẽ dựa vào căn cứ nào để đánh giá doanh nghiệp có đáp ứng điều kiện này hay không?
Đề nghị bổ sung đề xuất bỏ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 32 Luật An toàn thông tin mạng.
- “Có phương án kinh doanh phù hợp” (điểm đ): Quy định này dường như chưa phù hợp với tính chất của một điều kiện kinh doanh. Nếu mục tiêu hướng đến là nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp thì Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào yếu tố này. Mặt khác, phương án kinh doanh của doanh nghiệp thay đổi, tùy thuộc vào thị trường và tình hình kinh doanh. Do đó, những yếu tố như “quy mô số lượng sản phẩm”, “phạm vi, đối tượng cung cấp”, “dịch vụ hệ thống phục vụ khách hàng” có thể sẽ thay đổi trong quá trình doanh nghiệp hoạt động. Tại thời điểm cấp phép, những nội dung này chỉ mang tính “dự kiến” nhưng sẽ thay đổi khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Nhà nước sẽ không thể kiểm soát được điều này (nếu yêu cầu mỗi lần thay đổi các yếu tố trên, doanh nghiệp sẽ phải báo cáo, xin phép cơ quan quản lý sẽ tạo ra khối lượng thủ tục khổng lồ và hạn chế lớn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp). Vì vậy, thiết kế đây là điều kiện kinh doanh là chưa phù hợp. Đề nghị bổ sung đề xuất bỏ điểm đ khoản 2 Điều 31 Luật An toàn thông tin mạng, đồng thời sửa đổi các điều khoản liên quan.
- Về xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự
Hiện tại, theo quy định của Điều 34 Luật An toàn thông tin mạng, khi xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự thuộc Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, doanh nghiệp phải có Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Cần đánh giá lại tính cần thiết đối với Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự.
Bởi vì, điều kiện để doanh nghiệp được cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự là những điều kiện đã được kiểm soát trước đó, cụ thể: i) Kiểm soát về chủ thể nhập khẩu: có Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự; ii) Kiểm soát chất lượng của sản phẩm nhập khẩu: phải được chứng nhận, công bố hợp quy; iii) Đối tượng và mục đích sử dụng sản phẩm mật mã dân sự không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội – điều kiện này kiểm soát đối với người sử dụng và cũng không thể hiện trong hồ sơ xin cấp Giấy phép.
Mặt khác, không rõ về mục tiêu của chính sách khi yêu cầu doanh nghiệp đã có Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự phải có thêm Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự khi nhập khẩu, xuất khẩu mặt hàng này là gì? Các điều kiện cũng như hồ sơ xin cấp phép đều không làm rõ được mục tiêu này. Nếu để kiểm soát về mặt chủ thể – chỉ có những doanh nghiệp có Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và kiểm soát chất lượng của sản phẩm xuất khẩu, nhập khẩu thì các công cụ về Giấy phép kinh doanh và Chứng nhận hợp quy là đủ và cơ quan hải quan có thể kiểm tra các loại giấy tờ này khi thực hiện thủ tục hải quan. Nếu để nắm bắt thông tin về số lượng, chủng loại các sản phẩm xuất khẩu, nhập khẩu thì thông tin này cơ quan quản lý chuyên ngành có thể lấy được từ cơ quan hải quan.
Từ những phân tích trên, đề nghị cân nhắc, xem xét bỏ quy định về Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự.
II. Lĩnh vực quản lý vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ
- Về thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp lần đầu
Về cơ bản các đề xuất cắt giảm các giấy tờ trong hồ sơ xin cấp phép, bổ sung phương thức nộp hồ sơ trực tuyến tại Dự thảo là hợp lý, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Tuy vậy, để thuận lợi hơn, hạn chế những rủi ro xuất phát từ các quy định thiếu rõ ràng, đề nghị cân nhắc, xem xét vấn đề sau:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Thông tư 85/2018/TT-BQP, khi nộp hồ sơ xin cấp phép sẽ có hai trường hợp: i) cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép trên cơ sở xem xét hồ sơ; ii) cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra thực tế trước khi cấp giấy phép.
Quy định tại Thông tư 85/2018/TT-BQP là không rõ về các trường hợp cơ quan cấp phép sẽ tiến hành kiểm tra thực tế và trường hợp cấp phép chỉ qua xem xét hồ sơ. Điều này khiến cho trình tự thủ tục hành chính bị kéo dài vì căn cứ kiểm tra chưa rõ ràng và tạo ra nguy cơ nhũng nhiễu của các cán bộ thực thi.
Để đảm bảo tính minh bạch của quy định, đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng hoặc chỉ cấp phép trên cơ sở thẩm định hồ sơ hoặc quy định rõ các trường hợp sẽ tiến hành kiểm tra thực tế.
- Về thủ tục cấp lại, cấp đổi, cấp điều chỉnh Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp
- Trường hợp thay đổi về tên tổ chức, doanh nghiệp: Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Thông tư 85/2018/TT-BQP hồ sơ cấp điều chỉnh giấy phép trong trường hợp này tương tự như hồ sơ cấp phép lần đầu. Điều này là chưa phù hợp, đề nghị phân tách trường hợp cấp điều chỉnh giấy phép trường hợp đổi tên ra khỏi trường hợp cấp điều chỉnh đối với trường hợp thay đổi quy mô, điều kiện sử dụng vật liệu nổ công nghiệp.
Mặt khác, thủ tục điều chỉnh giấy phép trong trường hợp thay đổi quy định tại khoản 3 Điều 4 Thông tư 85/2018/TT-BQP cần thiết kế theo hướng doanh nghiệp chỉ cần phải cung cấp các giấy tờ liên quan đến các yếu tố thay đổi, thay vì phải cung cấp lại tất cả các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 3 Thông tư này.
- Trường hợp cấp lại khi Giấy phép hết hạn: Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 85/2018/TT-BQP, trong hồ sơ xin cấp lại Giấy phép, ngoài các tài liệu như trong hồ sơ cấp phép lần đầu, doanh nghiệp phải nộp thêm “báo cáo kết quả sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong thời hạn hiệu lực của Giấy phép”. Yêu cầu cung cấp thêm báo cáo này trong hồ sơ xin cấp phép sẽ tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp, bởi vì theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 1 Điều 45 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ về vật liệu nổ công nghiệp và tiền chất thuốc nổ thì các doanh nghiệp phải nộp báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất trong quá trình hoạt động kinh doanh. Cơ quan quản lý đã biết những thông tin này.
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đề nghị bỏ yêu cầu báo cáo này tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 85/2018/TT-BQP.
III. Lĩnh vực quản lý vùng trời
- Thủ tục cấp phép cho tàu bay không người lái
Dự thảo đã đề xuất xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 36/2008/NĐ-CP, trong đó đối với các thủ tục cấp phép, sửa đổi giấy phép bay đối với tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ theo hướng: bổ sung hình thức thực hiện thủ tục hành chính bằng hình thức trực tuyến, điện tử; phân cấp thẩm quyền cấp phép xuống cho Bộ Tư lệnh Quân khu, Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh. Các đề xuất điều chỉnh này là hợp lý, tuy nhiên vẫn chưa đủ.
Bởi vì, hồ sơ xin cấp phép bay đối với tàu bay không người lái theo quy định tại Nghị định 36/2008/NĐ-CP và Nghị định 79/2011/NĐ-CP còn chưa thực sự đủ rõ ràng (ví dụ: “các giấy tờ tài liệu khác liên quan đến tàu bay, phương tiện bay” tại khoản 1 Điều 9 Nghị định 36/2008/NĐ-CP là chưa rõ ràng, không rõ những loại tài liệu này là tài liệu nào. Việc thiếu rõ ràng trong quy định có thể tạo ra nguy cơ nhũng nhiễu của cán bộ thực thi và khiến cho thủ tục hành chính bị kéo dài; hoặc hồ sơ xin sửa đổi giấy phép cũng không rõ gồm những giấy tờ gì?).
Đề nghị bổ sung đề xuất rà soát lại hồ sơ xin cấp giấy phép trong đó đề xuất quy định theo hướng minh bạch, cụ thể hơn về tài liệu trong hồ sơ.
- Thủ tục đóng sân bay chuyên dùng trên mặt đất, mặt nước
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 12 Nghị định 42/2016/NĐ-CP thời gian để xem xét tính hợp lệ của hồ sơ là 05 ngày làm việc. Đây là thời gian quá dài khi xem xét tính hợp lệ của hồ sơ, trong khi hồ sơ chỉ có Đơn đề nghị theo mẫu. Để đơn giản hóa thủ tục, đề nghị bổ sung đề xuất rút ngắn thời gian xem xét tính hợp lệ của thủ tục này xuống còn 01 ngày làm việc.
Tương tự, đề nghị rút ngắn thời gian xem xét tính hợp lệ của hồ sơ xuống còn 01 ngày đối với thủ tục đóng bãi cất, hạ cánh trên mặt đất, mặt nước, công trình nhân tạo (điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị định 42/2016/NĐ-CP); thủ tục đóng bãi cất, hạ cánh trên boong tàu (điểm b khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2016/NĐ-CP); thủ tục đóng tạm thời sân bay chuyên dùng (điểm b khoản 2 Điều 17 Nghị định 42/2016/NĐ-CP).
- Thủ tục mở lại sân bay chuyên dùng
Đề nghị bỏ yêu cầu phải có “hồ sơ tài liệu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép đóng tạm thời sân bay chuyên dùng” (điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định 42/2016/NĐ-CP) trong hồ sơ đề nghị mở lại sân bay chuyên dùng, bởi vì cơ quan cho phép mở lại sân bay chuyên dùng là cơ quan có thẩm quyền cấp phép đóng tạm thời sân bay chuyên dùng và sẽ có hồ sơ về việc cấp phép đóng tạm thời này.
Theo tinh thần, không yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các tài liệu mà cơ quan quản lý đã có, đề nghị bỏ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định 42/2016/NĐ-CP.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.