Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư

Thứ Sáu 17:12 10-10-2025

Kính gửi: Ủy ban Kinh tế và Tài chính

Trả lời Công văn số 1168/UBKTTC15 của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Đầu tư (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến góp ý như sau:

  1. Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế (Điều 20)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Dự thảo nhà đầu tư nước ngoài sẽ thành lập tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư trước khi thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và phải đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện thủ tục thành lập tổ chức kinh tế.

Đây là một trong những thay đổi quan trọng của Dự thảo so với Luật hiện hành và hợp lý. Tuy nhiên, yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường quy định tại Điều 9 (tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế; hình thức đầu tư; phạm vi hoạt động đầu tư; năng lực của nhà đầu tư; đối tác tham gia thực hiện hoạt động đầu tư; Điều kiện khác theo quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên) cần cân nhắc lại.

Tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp, yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện tiếp cận thị trường là chưa cần thiết. Bởi vì, lúc này doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập chưa thực hiện dự án đầu tư, vì vậy chưa cần phải xem xét về điều kiện tiếp cận. Khi thực hiện dự án đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới cần phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và lúc này mới cần xem xét điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài. Tương tự như doanh nghiệp đăng ký thành lập có ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tại thời điểm đăng ký, chưa cần phải chứng minh đáp ứng điều kiện kinh doanh, chỉ khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì mới cần phải xin giấy phép/đáp ứng điều kiện.

Đề nghị sửa quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Dự thảo theo hướng “Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư trước khi thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư”.

  1. Lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư (Điều 24)

Điều 25 Dự thảo quy định về việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư. Khoản 4 Điều 24 Dự thảo quy định các trường hợp dự án đầu tư thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư:

– “Nhà đầu tư có quyền sử dụng đất, trừ trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật về đất đai” (điểm a). Theo quy định tại khoản 6 Điều 127 Luật Đất đai 2024, người đang có quyền sử dụng đất có đề xuất dự án đầu tư nếu thuộc trường hợp thu hồi đất nhưng phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và có đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư thì được sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư mà Nhà nước không thực hiện thu hồi đất theo quy định của Luật này. Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai thì người có quyền sử dụng đất muốn thực hiện dự án đầu tư mà thuộc trường hợp thu hồi đất thì Nhà nước sẽ không thực hiện thu hồi đất. Để phù hợp với pháp luật đất đai, đề nghị bỏ cụm từ “trừ trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật về đất đai”;

– “Nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai” (điểm b). Theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai 2023, nhà đầu tư có thể thực hiện dự án sử dụng đất thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, quy định này tại Luật Đất đai đang dự kiến sửa đổi theo hướng, trong trường hợp nhà đầu tư đã nhận thỏa thuận được ở một tỷ lệ nào đó (từ 75% hoặc từ 85% trở lên) thì Nhà nước sẽ tiến hành thu hồi tỷ lệ còn lại. Nếu theo quy định này của Luật Đất đai và dự kiến sửa đổi của pháp luật đất đai thì quy định này của Dự thảo cần sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất.

  1. Dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 27)

Khoản 1 Điều 28 Dự thảo quy định “Nhà đầu tư được quyền lựa chọn đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều này đối với dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, khu thương mại tự do và khu chức năng trong khu kinh tế, trừ dự án quy định tại điểm d, đ, e, g, h, i, k, l và m khoản 1 Điều 27 Luật này thực hiện tại khu kinh tế, khu thương mại tự do và dự án đầu tư quy định tại khoản 2 Điều 26 của Luật này”. Theo quy định này, những dự án quy định tại khoản 1 Điều 27 thực hiện tựi khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung sẽ được thực hiện theo thủ tục đầu tư đặc biệt, không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, chỉ cần thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 27 Dự thảo quy định, đối với dự án đầu tư quy định tại khoản 1 (các trường hợp dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) thực hiện tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, khu kinh tế phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế chấp thuận chủ trương đầu tư. Có nghĩa, tất cả các dự án đầu tư thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 đều phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư khi thực hiện trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung.

Như vậy, giữa quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 3 Điều 27 đang có sự chưa thống nhất về thủ tục đầu tư mà các nhà đầu tư thực hiện trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, đề nghị xem xét điều chỉnh lại để đảm bảo tính thống nhất.

  1. Điều chỉnh dự án đầu tư (Điều 31)

Khoản 3 Điều 31 Dự thảo quy định, nhà đầu tư có dự án đầu tư đã được chấp thuận chủ trương đầu tư phải thực hiện thủ tục chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư nếu thuộc một trong các trường hợp:

– “Thay đổi, bổ sung nội dung, mục tiêu thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư đã được quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư” (điểm a).

“Thay đổi, bổ sung nội dung” tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư là rất rộng. Để cải cách thủ tục hành chính, đề nghị chỉ quy định các điểm cần thiết phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, trong đó có mục tiêu hoạt động của dự án. Đề nghị bỏ cụm từ “bổ sung nội dung” tại quy định trên.

– “Tăng quy mô diện tích sử dụng đất trong trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; chuyển mục đích sử dụng đất” (điểm b).

Việc quy định nội dung “chuyển mục đích sử dụng đất” là một trong những tiêu chí để điều chỉnh chủ trương đầu tư là không cần thiết. Bởi việc chuyển mục đích sử dụng đất được quản lý theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật quy hoạch, không liên quan đến pháp luật về đầu tư. Quy định này có thể sẽ dẫn đến việc các cơ quan thẩm quyền sẽ lúng túng, trước khi muốn chuyển mục đích sử dụng đất phải điều chỉnh chủ trương đầu tư và để điều chỉnh chủ trương đầu tư lại phải có ý kiến thẩm định về chuyển mục đích sử dụng đất. Đề nghị bỏ cụm từ “chuyển mục đích sử dụng đất” tại quy định trên.

Quy định trên yêu cầu tăng quy mô diện tích sử dụng đất mà không đặt ra giới hạn tối thiểu về diện tích tăng thêm, điều này có thể dẫn tới việc dự án chỉ cần tăng quy mô diện tích với tỷ lệ rất thấp (dưới 10%) cũng phải thực hiện thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư, gây khó khăn, phức tạp về thủ tục cho nhà đầu tư. Đề nghị sửa đổi quy định này theo hướng yêu cầu việc tăng quy mô tối thiểu (khoảng 20% diện tích đất sử dụng) thì mới phải thực hiện điều chỉnh dự án đầu tư.

– “Kéo dài tiến độ thực hiện dự án đầu tư mà tổng thời gian đầu tư dự án vượt quá 12 tháng so với tiến độ thực hiện dự án đầu tư quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư lần đầu” (điểm c).

Đối với việc kéo dài tiến độ thực hiện dự án cần cân nhắc quy định tăng thêm thời gian và định lượng. Bởi, tùy theo quy mô, loại hình dự án khác nhau sẽ có thời gian thực hiện khác nhau. Do vậy, việc quy định chung kéo dài tiến độ thực hiện dự án quá 12 tháng phải điều chỉnh chủ trương đầu tư là chưa phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, doanh nghiệp đề nghị nên có quy định mở rộng thêm.

  1. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài

Theo quy định tại Mục 2 Chương V Dự thảo các dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên hoặc dự án đầu tư có lĩnh vực thuộc ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 43 phải thực hiện thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Nhà đầu tư phải thực hiện điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài khi: thay đổi hình thức đầu tư; thay đổi vốn đầu tư ra nước ngoài; nguồn vốn đầu tư, hình thức vốn đầu tư; thay đổi địa điểm thực hiện hoạt động đầu tư đối với các dự án đầu tư yêu cầu phải có địa điểm đầu tư; thay đổi mục tiêu chính của hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

So với quy định hiện hành, Dự thảo đã đơn giản nhiều thủ tục liên quan đầu tư ra nước ngoài như: bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài; giới hạn chỉ những dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên mới phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thay vì bất kì dự án nào cũng phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận này.

Mặc dù, Dự thảo đã có nhiều cải cách tạo thuận lợi hơn về thủ tục đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc vẫn giữ yêu cầu phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự án đầu tư có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên và các dự án đầu tư trong các ngành nghề đầu tư có điều kiện cần được cân nhắc ở các điểm sau:

– Yêu cầu các dự án có nguồn vốn từ tư nhân phải thực hiện Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài là chưa phù hợp và hoàn toàn không rõ về mục tiêu quản lý. Ngay cả hoạt động đầu tư trong nước, không phải hoạt động đầu tư nào cũng yêu cầu phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thì tất cả hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều phải xin giấy phép để được đầu tư ra nước ngoài là chưa hợp lý. Trong khi, các điều kiện đầu tư lại do pháp luật nước ngoài quy định, không phải là pháp luật Việt Nam. Điều này tạo gánh nặng rất lớn về thủ tục cho nhà đầu tư, nhất là khi có sự thay đổi trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư cũng phải thực hiện thủ tục để điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

          – Nếu có những lo ngại liên quan đến ngoại hối đã có sự quản lý của hệ thống pháp luật về ngoại hối.

          – Đối với những ngành nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện được liệt kê tại khoản 1 Điều 43 (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, kinh doanh bất động sản), nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài không phân biệt về quy mô vốn. Việc xác định các ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện đang không rõ mục tiêu quản lý. Đây là các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam, còn ra nước ngoài đầu tư lại do pháp luật của nước sở tại điều chỉnh. Không rõ nhà đầu tư đầu tư các ngành nghề này tại nước ngoài sẽ tác động gì tới lợi ích công cộng trong nước và những điều kiện để đầu tư ra nước ngoài có kiểm soát được những tác động này hay không, trong khi đây lại là rào cản lớn cho nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Để đảm bảo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, đề nghị cân nhắc:

– Bỏ cơ chế quản lý theo hướng cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài. Trong trường hợp có lý do thuyết phục để giữ lại cơ chế quản lý này, đề nghị nâng quy mô dự án đầu tư phải phải xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (có thể là từ 200 tỷ đồng trở lên hoặc hơn).

– Bỏ các ngành nghề đầu tư có điều kiện ra nước ngoài.

  1. Chế độ báo cáo hoạt động đầu tư tại Việt Nam (Điều 55)

Khoản 5 Điều 55 Dự thảo quy định “Đối với các dự án đầu tư không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư báo cáo cơ quan đăng ký đầu tư trước khi thực hiện dự án đầu tư.”. Quy định này vừa chưa rõ (không rõ nội dung báo cáo là gì) vừa chưa hợp lý và không rõ mục tiêu (các dự án đầu tư khi triển khai đã phải báo cáo theo quý và hàng năm rồi, việc yêu cầu trước khi thực hiện dự án phải báo cáo là không cần thiết và tạo gánh nặng về thủ tục hành chính). Đề nghị bỏ quy định này.

  1. Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện

Đề nghị cân nhắc, xem xét các ngành, nghề sau trong Danh mục:

  1. Nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm, sửa chữa, bảo dưỡng tàu bay không người lái, phương tiện bay khác, động cơ tàu bay, cánh quạt tàu bay và trang bị, thiết bị của tàu bay không người lái, phương tiện bay khác (Mục 90c)

Tàu bay không người lái (UAV) là phương tiện bay điều khiển từ xa hoặc tự động, không cần phi công ngồi trên máy bay. Ban đầu, UAV chủ yếu được sử dụng trong quân sự để thực hiện nhiệm vụ do thám và tấn công từ xa. Ngày nay, ứng dụng của UAV đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực dân sự như nông nghiệp, giao thông, quay phim, giám sát môi trường, và cứu hộ.

Trong nông nghiệp, UAV giúp nông dân giám sát cây trồng, phun thuốc bảo vệ thực vật và thu thập dữ liệu về đất đai một cách chính xác. Trong ngành công nghiệp điện ảnh, UAV cho phép quay phim và chụp ảnh từ trên cao, tạo ra những góc nhìn độc đáo và ấn tượng. Ngoài ra, trong lĩnh vực giao thông, UAV được sử dụng để giám sát tình trạng giao thông, hỗ trợ điều tiết và giảm thiểu ùn tắc.

UAV cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát môi trường, giúp theo dõi chất lượng không khí, nước và phát hiện các hiện tượng bất thường như cháy rừng. Trong các hoạt động cứu hộ, UAV có thể nhanh chóng tiếp cận những khu vực khó khăn, cung cấp hình ảnh và thông tin quan trọng để hỗ trợ cứu nạn.

Công nghệ UAV ngày càng phát triển với khả năng tự động hóa cao, giúp chúng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp một cách hiệu quả.

Việc sử dụng tàu bay không người lái (UAV) và phương tiện bay siêu nhẹ tác động tới một số lợi ích công cộng như: uy hiếp an toàn hàng không và đe dọa quốc phòng, an ninh. UAV có thể được dùng cho nhiều nhiệm vụ như trinh sát, chỉ thị mục tiêu, và thậm chí là tiến công. Các nguy cơ này chủ yếu xuất phát từ hoạt động sử dụng UAV hơn là từ khâu sản xuất hay kinh doanh. Do đó, việc áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với sản xuất UAV bằng điều kiện kinh doanh là quá mức cần thiết.

UAV có ảnh hưởng sâu rộng đến kinh tế, xã hội và quân sự. Việc phát triển ngành công nghiệp UAV trong nước có thể mang lại nhiều lợi ích, từ thúc đẩy kinh tế đến đảm bảo an ninh và nhu cầu quốc phòng. Các doanh nghiệp nội địa có thể giúp chuyển giao công nghệ từ quân sự sang dân sự và ngược lại. Nếu ngay từ đầu đã yêu cầu phải có giấy phép mới được nghiên cứu, chế tạo UAV sẽ cản trở rất lớn những cá nhân, tổ chức muốn nghiên cứu, chế tạo UAV. Điều này cũng sẽ hạn chế trong việc huy động các nguồn lực, trí lực của các cá nhân, tổ chức muốn nghiên cứu, chế tạo UAV.

Đề nghị cân nhắc bỏ ngành nghề này ra khỏi Danh mục Phụ lục IV.

  1. Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng (Mục 114)

Theo quy định tại Điều 22 Nghị định 23/2016/NĐ-CP, đơn vị quản lý vận hành cơ sở hỏa táng sẽ được lựa chọn trong các trường hợp:

          – Trường hợp cơ sở hỏa táng được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ lựa chọn đơn vị quản lý vận hành theo quy định của pháp luật về cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích

          – Trường hợp cơ sở hỏa táng từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng trực tiếp quản lý vận hành hoặc thuê quản lý cơ sở hỏa táng do mình đầu tư

Với các trường hợp được lựa chọn trên, không cần thiết phải kiểm soát hoạt động “quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng” bằng điều kiện kinh doanh. Bởi vì, các chủ đầu tư sẽ tự lựa chọn các đơn vị quản lý vận hành có chất lượng vì lợi ích của chính họ. Các chủ đầu tư cơ sở hỏa táng đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn để thực hiện dự án đầu tư, không có lý do gì để không lựa chọn các đơn vị quản lý vận hành tốt, có chất lượng để đảm bảo khai thác hiệu quả cơ sở hỏa táng và tránh những rủi ro có thể có khi vận hành cơ sở này.

Đề nghị bỏ ngành nghề này ra khỏi Danh mục Phụ lục IV

  1. Kinh doanh phân bón (Mục 171)

Theo quy định hiện tại hoạt động sản xuất, nhập khẩu, buôn bán phân bón đều phải đáp ứng điều kiện kinh doanh.

Theo quy định, phân bón khi lưu thông trên thị trường phải có Quyết định công nhận lưu hành phân bón, tức là đã được kiểm soát về chất lượng của phân bón – đây cũng là yếu tố tác động đến lợi ích công cộng cần được kiểm soát của ngành nghề kinh doanh này.

Việc áp đặt điều kiện kinh doanh đối với hoạt động buôn bán phân bón là chưa hợp lý, vì không rõ về mục tiêu quản lý, trong khi yêu cầu đảm bảo chất lượng đã được kiểm soát ở từng sản phẩm lưu thông ở thị trường.

Đề nghị sửa đổi lại phạm vi của ngành nghề “kinh doanh phân bón”  trong đó loại bỏ hoạt động “buôn bán phân bón” không phải đáp ứng điều kiện kinh doanh.

  1. Kinh doanh dịch vụ phổ biến phim (Mục 192)

Phổ biến phim là việc đưa phim đến công chúng thông qua rạp chiếu phim, phát sóng trên truyền hình, không gian mạng, địa điểm chiếu phim công cộng; …[1].

“Phim” là sản phẩm có thể tác động đến các lợi ích công cộng nếu các nội dung có chứa đựng các thông tin bị cấm quy định tại Điều 9 Luật Điện ảnh 2022. Vấn đề kiểm soát đối với các hoạt động kinh doanh này chính là đảm bảo các phim được lưu hành trên thị trường không chứa đựng các nội dung bị cấm.

Theo quy định của pháp luật về điện ảnh[2], một bộ phim lưu hành trên thị trường (phim do cơ sở sản xuất phim sản xuất, phim nhập khẩu) phải có giấy phép phân loại phim của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp/quyết định phát sóng của cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động truyền hình[3].

Với biện pháp cấp phép theo từng sản phẩm, những rủi ro có thể tác động đến các lợi ích công cộng đã được kiểm soát gần như tuyệt đối. Do đó, đặt ra điều kiện kinh doanh cho các chủ thể phổ biến phim là không cần thiết, bởi các hoạt động này sẽ không tác động đến trật tự công.

Đề nghị bỏ ngành nghề này ra khỏi Danh mục Phụ lục IV.

  1. Kinh doanh vàng (Mục 226)

Vàng trang sức thủ công mỹ nghệ được xem là loại hàng hóa thông thường. Kinh doanh loại hàng hóa này không tác động đến lợi ích công cộng như các loại vàng khác trong cùng nhóm “Kinh doanh vàng”. Bản thân các điều kiện kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh vàng trang sức thủ công mỹ nghệ không có tính đặc thù của một ngành nghề kinh doanh có điều kiện (tức là không rõ kiểm soát yếu tố tác động đến lợi ích công cộng nào) như: a) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; b) Có địa điểm, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Đại diện của Hiệp hội kinh doanh vàng cũng cho biết, việc kiểm soát hoạt động nhập khẩu vàng, phân phối vàng bằng các điều kiện kinh doanh, giấy phép đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Doanh nghiệp không có nguyên liệu để sản xuất và thiếu nguồn cung ra thị trường.

Trong quá trình thực thi Nghị định 24/2012/NĐ-CP và lấy ý kiến đối với Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều, các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã kiến nghị thu hẹp phạm vi ngành nghề kinh doanh vàng trong đó chỉ cần kiểm soát điều kiện kinh doanh đối với hoạt động “sản xuất vàng miếng”, còn các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến vàng nên quản lý như hoạt động kinh doanh thông thường.

  1. Hoạt động in, đúc tiền (Mục 227)

Theo quy định tại Nghị định 40/2012/NĐ-CP in, đúc tiền đang lưu hành và in, đúc tiền mới chưa phát hành là hoạt động do Nhà nước thực hiện, cụ thể:

          – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước căn cứ dự báo nhu cầu tiền mặt của nền kinh tế, nhu cầu tiền dự trữ phát hành, nhu cầu thay thế tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông hàng năm để quyết định cơ cấu, số lượng, giá trị tiền đang lưu hành cần in, đúc thêm.

– Ngân hàng Nhà nước xây dựng dự án in, đúc các loại tiền mới chưa phát hành để bổ sung, thay thế tiền trong lưu thông trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án phải bao gồm thiết kế mẫu về mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và các đặc điểm khác của các loại tiền mới này.

Ngân hàng Nhà nước sẽ tổ chức thực hiện việc thiết kế mẫu tiền, chế bản in, đúc tiền.

Tổ chức việc in, đúc tiền sẽ được thực hiện theo hợp đồng giữa Ngân hàng Nhà nước và các cơ sở in, đúc tiền trên cơ sở kế hoạch in, đúc tiền và tiêu chuẩn kỹ thuật từng loại tiền do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.

Dựa vào các quy định trên có thể thấy “in, đúc tiền” không phải là hoạt động kinh doanh, mà là một hoạt động có tính vụ việc/giao dịch giữa cơ quan nhà nước với tổ chức có hoạt động tin với những điều kiện, ràng buộc có tính đặc thù của in, đúc tiền. Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện là áp dụng điều kiện kinh doanh lên chủ thể kinh doanh. Trong trường hợp này, nếu xem cơ sở in là chủ thể kinh doanh thì điều kiện kinh doanh được áp dụng theo quy định điều chỉnh của ngành in. Bản thân Nghị định 40/2012/NĐ-CP cũng không quy định điều kiện kinh doanh của “cơ sở in, đúc tiền”.

 Tóm lại, việc xác định là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện là chưa phù hợp. Đề nghị bỏ ra khỏi Danh mục tại Phụ lục IV.

Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Đầu tư. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

[1] Chương IV Luật Điện ảnh 2022

[2] Luật Điện ảnh 2022

[3] Khoản 2 Điều 18 Luật điện ảnh 2022

Các văn bản liên quan