Một số vấn đề cần tập trung thảo luận về dự án luật về hội

Thứ Ba 22:47 02-06-2009

(Báo cáo tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách tháng 8-2006 và gửi xin ‎ ý ‎kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội)

Kính gửi các vị đại biểu Quốc hội,

Ngày 9 tháng 6 năm 2006, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại hội trường để cho ý kiến về dự án Luật về hội. Sau kỳ họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Uỷ ban pháp luật, Ban soạn thảo, các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự thảo Luật. Sau đây, chúng tôi xin báo cáo một số vấn đề cần tập trung thảo luận về dự án Luật về hội. 
I.    NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.    Về khái niệm hội (Điều 1)
Có ý kiến cho rằng khái niệm hội nêu trong dự thảo luật chưa bao quát được hết các tổ chức hội và đề nghị cần quy định khái quát, bảo đảm sự đa dạng các hình thức tổ chức hội. Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “không vụ lợi” hoặc thay cụm từ “không vụ lợi” bằng cụm từ “không vì mục đích lợi nhuận” và quy định khái niệm  về hội với các tiêu chí cụ thể là tổ chức tự nguyện, tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật,  đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, chúng tôi đã chỉnh lý Điều 1 về Hội theo hướng  khái quát chung các hình thức tổ chức hội ở nước ta hiện nay, bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân, cụ thể như sau:
“Điều 1. Hội
1. Hội là tổ chức tự nguyện, bao gồm những người có cùng nhu cầu, mục đích, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân, hội không có tư cách pháp nhân.
Hội có tư cách pháp nhân là hội hoạt động thường xuyên, có điều lệ, đăng ký và hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Hội không có tư cách pháp nhân là hội hoạt động không thường xuyên, không có điều lệ, hoạt động theo quy định của Chính phủ.
3. Hội có tư cách pháp nhân được tổ chức dưới hình thức hội đơn nhất hoặc liên hiệp.”
2.    Về bảo đảm quyền lập hội (Điều 2)
 Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật chưa quy định việc bảo đảm và tôn trọng quyền lập hội của công dân.
Chúng tôi nhận thấy, dự thảo Luật được xây dựng nhằm cụ thể hóa quyền lập hội đã được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992, đồng thời kế thừa quy định tại Sắc lệnh ngày 20/5/1957 do Hồ Chủ Tịch ký ban hành. Những nội dung trong dự thảo Luật được xây dựng theo tinh thần đó. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến đóng góp của các vị đại biểu Quốc hội, chúng tôi đã bổ sung một Điều mới quy định về “Bảo đảm quyền lập hội của công dân” tại Chương I nhằm thể hiện rõ hơn quyền lập hội của công dân cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền lập hội, tạo điều kiện cho hội hoạt động và phát triển, cụ thể như sau:
“Điều 2. Bảo đảm quyền lập hội
1. Công dân có quyền lập hội, gia nhập hội, ra khỏi hội theo quy định của luật này và  quy định khác  của pháp luật có liên quan.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của công dân, tạo điều kiện cho hội hoạt động và phát triển.
3. Tổ chức và hoạt động của hội phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật.”
3.    Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 3)
a) Về phạm vi điều chỉnh:
- Có ý kiến đề nghị Luật này chỉ quy định về quyền lập hội của công dân Việt Nam, trình tự, thủ tục thành lập hội và do vậy nên lấy tên Luật là “Luật lập hội”. Chúng tôi cho rằng Luật này không những có nhiệm vụ cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp 1992 về quyền lập hội của công dân Việt Nam mà còn phải quy định về trình tự, thủ tục lập hội, những vấn đề chung về tổ chức, hoạt động của hội và về quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của hội, do vậy tên Luật là “Luật về hội” là hợp lý.
- Đa số ý kiến tán thành với phạm vi điều chỉnh của Luật là chỉ điều chỉnh đối với các hội có tư cách pháp nhân. Một số đề nghị quy định rõ thế nào là hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân; có ý kiến đề nghị giải thích rõ lý do tại sao không điều chỉnh hội không có tư cách pháp nhân trong Luật này mà lại giao Chính phủ quy định.
Chúng tôi nhận thấy, trên thực tế hiện nay có hai loại hình tổ chức về hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân. Hội có tư cách pháp nhân là hội hoạt động thường xuyên, có điều lệ, đăng ký và hoạt động theo quy định của Luật này (khoản 2, Điều 1); về tư cách pháp nhân của hội còn phải đáp ứng đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí của pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự. Với tư cách là chủ thể độc lập trong quan hệ pháp luật, hội có tư cách pháp nhân có nghĩa vụ đăng ký việc thành lập, tổ chức và hoạt động với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Còn hội không có tư cách pháp nhân (hội đồng hương, hội đồng ngũ, đồng niên .v.v...) là loại hình tổ chức không chặt chẽ, hoạt động không thường xuyên, không có điều lệ và không phải là chủ thể độc lập chịu trách nhiệm trong các quan hệ pháp luật. Tổ chức và hoạt động của hội không có tư cách pháp nhân thường đơn giản mang tính chất hội họp nên không áp dụng các thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động, hội viên... như đối với hội có tư cách pháp nhân. Vì vậy, nên để Chính phủ quy định.
b) Về đối tượng áp dụng:
- Có ý kiến tán thành phương án là Luật này không áp dụng đối với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; ý kiến khác tán thành với phương án là Luật này áp dụng đối với tất cả các tổ chức hội bao gồm cả Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Có ý kiến đề nghị Luật về hội áp dụng đối với các tổ chức hội  trừ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; ý kiến khác đề nghị Luật về hội điều chỉnh đối với tất cả các tổ chức hội, nhưng cần quy định rõ là tổ chức nào đã có Luật riêng điều chỉnh thì áp dụng theo Luật đó. Có ý kiến đề nghị Luật này không quy định cụ thể về đối tượng áp dụng mà cần quy định rõ khái niệm về hội, từ đó, nếu hội nào hội đủ những tiêu chí đó thì thuộc đối tượng áp dụng của Luật này.
Chúng tôi thấy rằng, đây là một vấn đề mà trong quá trình soạn thảo, thẩm tra, cũng như  ý kiến của đại biểu Quốc hội vẫn rất khác nhau. Mỗi loại ý kiến đều có lập luận riêng. Cho đến nay, có thể có 3 phương án về đối tượng áp dụng như sau:
Phương án 1:
1. Luật này quy định về tổ chức, hoạt động của hội  và quản lý nhà nước về  hội có tư cách pháp nhân.
2. Hội không có tư cách pháp nhân hoạt động theo quy định của Chính phủ.
3. Hiệp hội doanh nghiệp của nuớc ngoài thành lập tại Việt Nam hoạt động theo quy định của Chính phủ.
Theo phương án này, cùng với định nghĩa về hội tại Điều 1, các quy định liên quan tại Điều 4 (nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội), tại Điều 5 (áp dụng pháp luật về hội), tại khoản 3 Điều 33 (hiệu lực thi hành) là phù hợp với thực tiễn tổ chức, hoạt động của hội ở nước ta hiện nay. Đây là phương án được nhiều ý kiến trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật tán thành và dự thảo luật trình các vị đại biểu Quốc hội được chuẩn bị theo phương án này.
Phương án 2:
1. Luật này quy định về tổ chức, hoạt động của hội và quản lý nhà nước về  hội có tư cách pháp nhân.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các quy định của pháp luật có liên quan.
3. Hội không có tư cách pháp nhân hoạt động theo quy định của Chính phủ.
4. Hiệp hội doanh nghiệp của nước ngoài thành lập, hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.
Theo phương án này, do đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng; vì thế nếu xác định tổ chức này thuần túy mang tính chất hội là chưa phản ánh đúng bản chất và thực tiễn tổ chức và hoạt động của Mặt trận. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, trong điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, với vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì không thể và không nên đặt Mặt trận Tổ quốc ra ngoài tổ chức và hoạt động của các hội. Hơn nữa, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay không chỉ bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội mà còn nhiều hội khác nữa.
Phương án 3:
1. Luật này quy định về tổ chức, hoạt động của hội và quản lý nhà nước về  hội có tư cách pháp nhân.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam được tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp luật có liên quan.
3. Hội không có tư cách pháp nhân hoạt động theo quy định của Chính phủ.
4. Hiệp hội doanh nghiệp của nuớc ngoài thành lập, hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.”
Theo phương án này, tương tự như lập luận tại phương án 2, theo đó không nên áp dụng Luật về hội đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác.
c) Có ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng áp dụng bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh, khoa học và công nghệ, nhân đạo, từ thiện cũng có quyền lập hội.
    Chúng tôi nhận thấy một trong những mục đích xây dựng Luật về hội là nhằm thể chế hóa quyền lập hội của công dân Việt Nam đã được quy định trong Hiến pháp 1992. Đây là quyền cơ bản của công dân nên không thể mở rộng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Vì vậy, xin giữ như quy định của dự thảo Luật. Riêng đối với  doanh nghiệp nước ngoài hoạt động thương mại, đầu tư và dịch vụ tại Việt Nam nếu được thành lập tại Việt Nam kể cả trong trường hợp 100% vốn nước ngoài, theo quy định của pháp luật  là các tổ chức kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, việc liên kết, thành lập hội nghề nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức này đang được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Do đó, xin giữ như quy định tại Điều 3 là: “3. Hiệp hội doanh nghiệp của nuớc ngoài thành lập, hoạt động tại Việt Nam theo  quy định của Chính phủ.”
4.    Về quản lý nhà nước về hội (Điều 7, Điều 8)
Nhiều ý kiến nhất trí với quy định của dự thảo Luật giao Bộ Nội vụ là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý Nhà nước về việc thành lập, hoạt động đối với các hội trong phạm vi cả nước, liên tỉnh; đồng thời cần quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ, ngành trong quản lý nhà nước để không hiểu là Bộ chủ quản của các hội. Ý kiến khác cho rằng quy định trong dự thảo Luật còn chung, cần quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý hội. Có ý kiến đề nghị cần bổ sung quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế của hội.
Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định một điều (Điều 7) về nội dung quản lý nhà nước về hội và một điều (Điều 8) về trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với hội với nội dung như trong dự thảo Luật:
5.    Về thủ tục thành lập hội (Chương II, từ Điều 10 đến Điều 16)
Có ý kiến cho rằng quy định thủ tục thành lập hội tại chương II là quá rườm rà, phiền phức, nhiều quy định can thiệp sâu vào hoạt động của hội. Một số ý kiến khác đề nghị cân nhắc lại quy định về thời gian cấp giấy đăng ký thành lập hội; tổ chức đại hội, công nhận điều lệ hội, vì cho là quá dài.
Chúng tôi nhận thấy, việc quy định cụ thể, rõ ràng về thủ tục thành lập hội bảo đảm sự minh bạch, chặt chẽ để vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, vừa tạo điều kiện thuận lợi với thủ tục đơn giản, thông thoáng, gớp phần bảo đảm để công dân thực hiện quyền lập hội. Do đó, xin giữ cách quy định của dự thảo Luật; đồng thời tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội xin chỉnh lý với thủ tục đơn giản, chặt chẽ, cụ thể như sau:
- Về Ban vận động thành lập hội (Điều 10): Quy định Ban vận động thành lập hội  chỉ cần có ít nhất 3 sáng lập viên, đồng thời bỏ quy định yêu cầu ban vận động thành lập hội phải thông báo bằng văn bản tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi thành lập; bổ sung quy định về tiêu chuẩn sáng lập viên (phải là người không thuộc đối tượng đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước một số quyền công dân); bổ sung nhiệm vụ cử người đứng đầu ban vận động thành lập hội.
- Về thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, công nhận điều lệ hội và thời gian tổ chức đại hội: Quy định thời hạn ngắn hơn so với dự thảo trình Quốc hội với việc cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội và thời hạn công nhận điều lệ hội còn 45 ngày; thời hạn tổ chức đại hội thành lập hội là 60 ngày, đồng thời quy định rõ nếu trong thời gian 60 ngày kể từ ngày nhận được giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, nếu Ban vận động thành lập hội  không tổ chức đại hội thành lập hội thì giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hết hiệu lực.
6.      Về hội viên chính thức (Điều 18)
Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “công dân, tổ chức Việt Nam” bằng cụm từ “công dân, tổ chức Việt Nam, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài và người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh, khoa học công nghệ, nhân đạo, từ thiện” có thể gia nhập hội.
Như đã trình bày ở phần trên (điểm c phần 3 – Điều 3) đối tượng điều chỉnh của Luật này chỉ bao gồm công dân, tổ chức Việt Nam. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thành lập và hoạt động tại Việt Nam thì việc thành lập hội nghề nghiệp hay có tham gia làm thành viên của hội của Việt Nam hay không sẽ do Chính phủ quy định. Vì vậy xin giữ như dự thảo, cụ thể như sau:
“Điều 18. Hội viên chính thức
1. Cá nhân, tổ chức Việt Nam tán thành điều lệ hội, tự nguyện gia nhập hội, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn hội viên theo quy định của Luật này và điều lệ hội có thể trở thành hội viên chính thức của hội.
2. Quyền, nghĩa vụ của hội viên do điều lệ hội quy định.” 
7.    Về hội viên liên kết
Nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về hội viên liên kết và cho rằng trong điều kiện hiện nay không nên quy định về hội viên liên kết. Có ý kiến đề nghị mở rộng đối tượng có thể trở thành hội viên liên kết bao gồm cả các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh, khoa học kỹ thuật, nhân đạo, từ thiện…
Chúng tôi nhận thấy, việc quy định về hội viên liên kết cần làm rõ về mục đích của các cá nhân, tổ chức Việt Nam và các cá nhân nước ngoài muốn trở thành hội viên liên kết trong các hội của Việt Nam, cũng như mục đích của các hội khi kết nạp hội viên liên kết. Mặt khác địa vị pháp lý của Hội viên liên kết là không rõ ràng. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp về sức người, sức của cho công cuộc xây dựng đất nước. Hơn nữa, dự thảo Luật cũng đã có quy định về hội viên danh dự (Điều 19). Trong trường hợp này, các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoàn toàn có thể trở thành hội viên danh dự mà không nhất thiết phải là hội viên liên kết của một hội cũng vẫn hoàn toàn có điều kiện đóng góp cho hội. Quy định về hội viên liên kết ngay trong Luật này nếu không cụ thể, chặt chẽ thì thông qua con đường hội viên liên kết, một số hội do không tự chủ được tài chính mà dựa vào nguồn đóng góp của các hội viên liên kết và dẫn tới dễ bị lợi dụng và bị chi phối bởi các nguồn tài trợ đó. Vì vậy xin khong quy định nội dung này trong dự thảo Luật.
8.    Về tài sản, tài chính của hội (Điều 30, Điều 31)
Có ý kiến đề nghị Chương tài sản, tài chính của hội cần được quy định cụ thể hơn, trong đó quy định rõ các khoản hội được thu, chi, chế độ tài chính; đề nghị bổ sung nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ các quy định của pháp luật về tài chính, kế toán. Có ý kiến đề nghị luật cần quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với hội. Có ý kiến cho rằng chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quyết định chính sách tài chính Quốc gia, nên quy định như Điều 45 của dự thảo Luật trình Quốc hội là chưa phù hợp.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã lược bỏ một số quy định tại Điều 45 của dự thảo Luật trình Quốc hội và chỉnh lý thành Điều 30 mới. Đối với hỗ trợ từ ngân sách nhà nước sẽ được thực hiện theo quy định của Luật ngân sách và được thu hút vào “nguồn thu hợp pháp khác”. Như vậy, Điều 30 có nội dung như sau:
“Điều 30. Thu và chi của hội
1. Nguồn thu của hội gồm có:
a) Hội phí;
b) Tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật;
c) Các nguồn thu hợp pháp khác.
2. Các khoản chi của hội được thực hiện theo quy định của điều lệ hội và các quy định của pháp luật.”
II.    MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
1.     Về bố cục của dự thảo Luật về hội
Có ý kiến cho rằng bố cục dự thảo Luật còn rườm rà, nhiều điều khoản của dự thảo luật không logic hoặc thừa vì đã quy định ở các văn bản pháp luật khác.
Tiếp thu ý kiến trên, chúng tôi đã  bỏ Chương VII quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm; bỏ các Điều 21, 22 và Điều 45 (dự thảo Luật trình Quốc hội ); đổi tên Chương V Liên hiệp, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể hội thành, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể hội; đồng thời chuyển Điều 33 (dự thảo Luật trình Quốc hội) xuống thành Điều 32 mới; ghép Điều 2 và Điều 3 vào thành Điều 3 mới quy định về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; ghép nội dung các Điều 24, 25 và Điều 26 (dự thảo Luật trình Quốc hội) thành Điều 21 (mới); ghép nội dung các Điều 35, 36, 38 và Điều 39 (dự thảo Luật trình Quốc hội) thành Điều 27 (mới).
Như vậy, dự thảo Luật mới được chỉnh lý gồm có 7 chương, 34 điều (dự thảo trình Quốc hội có 8 chương, 49 điều).
 Có ý kiến đề nghị xác định rõ việc xây dựng Luật về hội theo hướng Luật khung hay Luật chi tiết
Chúng tôi nhận thấy, trong những năm gần đây, chúng ta mong muốn xây dựng các đạo luật quy định một cách cụ thể, chi tiết để tiện áp dụng trong cuộc sống, đồng thời cũng giảm gánh nặng cho các cơ quan trong việc hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, Luật về hội là một đạo luật phức tạp, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác. Đồng thời có nhiều vấn đề hoặc là phải được quy định ở điều lệ hội hoặc ở các văn bản khác. Vì vậy, việc xây dựng Luật về hội theo hướng như dự thảo Luật là hợp lý.
2.    Về việc phân loại hội
Có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị phân loại hội và có các quy định phù hợp đối với từng loại hội.
Chúng tôi nhận thấy, hiện nay các đoàn thể nhân dân và các tổ chức hội thường được phân loại thành: tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và các tổ chức hội khác. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định các tiêu chí cụ thể cho việc phân loại các tổ chức hội. Chúng tôi cho rằng nếu đặt vấn đề phân loại các hội trong Luật thì trước tiên cần phải xác định các tiêu chí để phân loại màviệc xác định các tiêu chí thường không đơn giản. Hơn nữa, mục đích của việc phân loại hội là không rõ. Mặt khác, nếu đặt vấn đề này có thể dẫn tới những tranh luận không cần thiết, không có lợi về nhiều mặt. Vì vậy, đề nghị xin giữ như dự thảo Luật.
3.    Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội (Điều 4)
Có ý kiến đề nghị bỏ nguyên tắc không vụ lợi hoặc thay nguyên tắc “không vụ lợi” bằng nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận” ; Có ý kiến đề nghị bổ sung các nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên ; tuân thủ đúng, đầy đủ điều lệ hội; phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích của đất nước; tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng và sắp xếp lại các nguyên tắc theo một trình tự hợp lý hơn.
Tiếp thu ý kiến đại biểu xin đề nghị lược bỏ các  nguyên tắc hoạt động thường xuyên thay thế nguyên tắc “không vụ lợi” bằng nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận”, bổ sung nguyên tắc “tuân thủ pháp luật, điều lệ hội” và sắp xếp lại thứ tự cho hợp lý, logic như Điều 4 của dự thảo Luật.
Có ý kiến cho rằng cần xem lại việc một số nội dung “tự nguyện”, “hoạt động không vì mục đích lợi nhuận” vừa được sử dụng trong khái niệm về Hội (Điều 1) vừa được sử dụng trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động (Điều 4). Chúng tôi cho rằng, những nội dung này vừa mang tính chất, đặc điểm, đặc trưng của hội, nhưng lại vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động. Đây không chỉ là đặc điểm của hội ở Việt Nam mà còn là đặc điểm, nguyên tắc chung đối với hội trên thế giới. Vì vậy xin cho giữ như dự thảo.
b) Có ý kiến đề nghị không nên quy định nguyên tắc “tự chủ về tài chính” đối với hội mà nên thay bằng nguyên tắc “tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính”.
Chúng tôi nhận thấy nguyên tắc tự chủ về tài chính là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hội. Nguyên tắc tự chủ về tài chính được quy định tại Điều này khẳng định là hội hoạt động dựa trên sự độc lập, tự chịu trách nhiệm, tự quản, tự trang trải về tài chính. Các nguồn thu của hội xuất phát từ việc đóng góp của các hội viên hay từ các nguồn thu hợp pháp khác. Vì vậy xin cho giữ nguyên này trong dự thảo Luật.
4.    Về điều kiện trở thành hội (Điều 6)
a) Có ý kiến đại biểu Quốc hội băn khoăn với điều kiện không trùng lắp về tên gọi và đề nghị làm rõ khái niệm “lĩnh vực hoạt động chính”, “tài sản độc lập” vì cho rằng quy định như vậy sẽ làm hạn chế quyền lập hội của công dân.
Chúng tôi nhận thấy phạm vi điều chỉnh của Luật này là đối với hội có tư cách pháp nhân. Do đó, các điều kiện để trở thành hội phải phù hợp với các điều kiện để trở thành pháp nhân đã được quy định trong Bộ luật dân sự, bao gồm các điều kiện về cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tài sản độc lập... và các điều kiện đặc thù khác. Điều kiện không trùng lắp về tên gọi của hội là một trong những yêu cầu không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của hội, cũng như trong công tác quản lý nhà nước về hội. Bởi vì trong phạm vi cả nước không thể có hai pháp nhân có tên gọi trùng nhau. Vì vậy đề nghị cho giữ quy định này.
Có ý kiến đề nghị bỏ điều kiện “không được trùng lắp về lĩnh vực hoạt động chính” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền lập hội, chống sự độc quyền. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, chúng tôi xin bỏ nội dung này. Bên cạnh đó vẫn có ý kiến cho rằng nếu không quy định điều kiện này sẽ dẫn đến trường hợp trong cùng một lĩnh vực sẽ có rất nhiều hội hoạt động, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
b) Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về điều kiện “có đủ số hội viên tham gia hội theo quy định của Chính phủ” hoặc quy định cụ thể trong Luật này về số lượng hội viên tham gia hội để tránh gây khó khăn cho việc thành lập hội, hạn chế quyền lập hội của công dân.
Chúng tôi nhận thấy quy định điều kiện này là cần thiết vì thực tế hiện nay, việc quy định số lượng hội viên tham gia hội căn cứ vào phạm vi hoạt động của hội, theo đó nếu hội chỉ hoạt động trong phạm vi của xã, huyện thì yêu cầu về số lượng hội viên sẽ thấp hơn đối với hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, toàn quốc. Yêu cầu này nhằm bảo đảm quy mô tổ chức hội phải tương xứng phạm vi hoạt động, bảo đảm hoạt động  thực chất và hiệu quả của hội . Tuy nhiên, đây là điều kiện để trở thành hội, vì vậy không thể quy định là có đủ số “hội viên” tham gia hội. Do đó xin được chỉnh lý lại là “Có số người đăng ký tham gia hội tối thiểu  theo quy định của Chính phủ”
5.    Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9)
Có ý kiến đề nghị cần cân nhắc lại Điều này vì quy định quá nhiều các hành vi bị nghiêm cấm và đề nghị cân nhắc quy định một điều về các hành vi được khuyến khích làm.
Chúng tôi cho rằng việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm là cần thiết, không chỉ đối với hội, hội viên mà còn đối với tổ chức, cá nhân khác Vì vậy, cần quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, chúng tôi đã chỉnh lý lại Điều 9 như trong dự thảo.
 Về ý kiến đề nghị quy định một điều các hành vi được khuyến khích làm, chúng tôi cho rằng hội, hội viên có thể làm bất cứ việc gì không trái với các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, điều lệ hội. Việc quy định về các hành vi khuyến khích là không cần thiết vì nếu quy định sẽ không thể bao quát hết, đồng thời sẽ can thiệp vào tính chất tự chủ, tự quản của các hội. Vì vậy, đề nghị cho giữ như dự thảo Luật.
6.    Về tên, biểu tượng, trụ sở, con dấu và tài khoản của hội (Điều 12)
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định tên của hội có thể được ghi bằng tiếng dân tộc.
Về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ sử dụng chính thức ở nước ta là tiếng Việt. Ngôn ngữ trong các văn bản của tất cả các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay đều được quy định sử dụng tiếng Việt. Do đó, quy định tên gọi của hội được viết bằng tiếng Việt là hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết thì tên của hội có thể được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Vì vậy đề nghị cho giữ quy định tên của hội như Điều 12 của dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung.
7.    Về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, công nhận điều lệ hội (Điều 16)
Có ý kiến đề nghị quy định cho Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã có thẩm quyền quyết định thành lập hội có quy mô hoạt động ở cấp huyện,  xã, phường, thị trấn để thuận tiện hơn cho công tác quản lý.
Về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy việc phân cấp quản lý về hội cần được quy định thống nhất với nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Theo đó Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động của các hội trong phạm vi địa phương mình. Vì vậy, đề nghị cho giữ việc phân cấp quản lý đối với hội như trong dự thảo luật.
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 3 Điều 16 dự thảo Luật trình Quốc hội vì quy định nội dung này tại khoản này là không hợp lý. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, chúng tôi xin chuyển nội dung này xuống Điều 28 của dự thảo Luật.
8.    Về đại hội (Điều 21)
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 23 và Điều 24 dự thảo Luật trình Quốc hội vì cho rằng đại hội không phải là một tổ chức mà chỉ là hình thức hoạt động cao nhất của hội, đồng thời không quy định cụ thể về Ban lãnh đạo, Ban kiểm tra của hội vì mỗi hội được tổ chức khác nhau, nếu quy định trong luật sẽ dẫn đến cứng nhắc và không hợp lý.
Chúng tôi cho rằng thực tiễn tổ chức và hoạt động của các hội ở nước ta cũng như theo thông lệ và pháp luật quốc tế thì đại hội của mỗi hội luôn là cơ quan lãnh đạo cao nhất của hội đó, có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của hội. Đại hội có thể được tổ chức dưới hình thức đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu. Việc quy định Ban Lãnh đạo, Ban Kiểm tra của hội trong Luật này nhằm bảo đảm thống nhất cách thức tổ chức của các hội. Tuy nhiên  ngoài Ban Lãnh đạo, Ban Kiểm tra bắt buộc phải có theo quy định của Luật này thì các hội có thể tổ chức các hình thức khác phù hợp với hoạt động của mình. Đồng thời, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, chúng tôi đã chỉnh lý nội dung Điều 23 thành Điều 20 (mới), ghép các điều 24, 25 và Điều 26 thành Điều 21 (mới) như trong dự thảo Luật.
9.    Về văn phòng đại diện, chi nhánh của hội ở nước ngoài
Nhiều ý kiến đề nghị không quy định về việc lập văn phòng đại diện, chi nhánh của hội ở nước ngoài. Ý kiến khác đề nghị cần quy định cụ thể hơn về việc lập văn phòng đại diện, chi nhánh của hội ở nước ngoài ngay trong Luật này.
Chúng tôi cho rằng phải có sự cân nhắc kỹ về việc có nên quy định về vấn đề này trong Luật về hội hay không. Trên thực tế hiện nay, chỉ có những hội nghề nghiệp là có nhu cầu  và có khả năng về tài chính để có thể tự mở văn phòng đại diện, chi nhánh ở nước ngoài. Mặt khác, theo quy định của Bộ Luật dân sự, với tư cách là một pháp nhân Việt Nam thì các hội nghề nghiệp có thể tự mở văn phòng đại diện, chi nhánh ở nước ngoài. Do đó không nhất thiết phải quy định vấn đề này trong Luật về hội. Việc không quy định trong Luật về hội về việc mở văn phòng đại diện, chi nhánh của hội ở nước ngoài còn nhằm tránh việc các hội không có nhu cầu thực sự, không có khả năng tài chính lợi dụng sự cho phép của pháp luật để lập văn phòng đại diện, chi nhánh của hội ở nước ngoài gây ra sự lãng phí, tốn kém không cần thiết, đồng thời tránh được những phức tạp do hoạt động của các chi nhánh, văn phòng đại diện này. Vì vậy, đề nghị cho bỏ nội dung này trong dự thảo Luật.
10.     Về Liên hiệp (Điều 32)
Có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị xây dựng một chương riêng về Liên hiệp quy định cụ thể trong luật thủ tục thành lập liên hiệp, xác định rõ mối quan hệ, trách nhiệm, quyền lợi giữa Liên hiệp và các hội thành viên vì việc thành lập liên hiệp có những yêu cầu và điều kiện khác với thành lập các hội riêng biệt.
Chúng tôi nhận thấy Liên hiệp cũng là một hình thức tổ chức của hội. Vì vậy không thể có các quy định riêng đối với việc thành lập Liên hiệp khác với việc thành lập hội mà những quy định về hội là được áp dụng cả đối với Liên hiệp. Khi các hội tham gia Liên hiệp với tư cách là hội viên thì mối quan hệ, trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ giữa các hội và Liên hiệp là mối quan hệ giữa hội viên và hội. Vì vậy, đề nghị không quy định một chương riêng về Liên hiệp. Tuy nhiên, để làm rõ hơn vị trí của Liên hiệp so với các hội, đề nghị bổ sung cụm từ “hội được tổ chức dưới hình thức đơn nhất hoặc liên hiệp” vào khoản 3 Điều 1 của dự thảo Luật. Đồng thời chuyển Điều 33 quy định về liên hiệp tại Chương V dự thảo Luật trình Quốc hội xuống thành Điều 32 tại Chương điều khoản thì hành.
Ngoài những nội dung trên đây, chúng tôi đã nghiên cứu tiếp thu các ý kiến khác của các vị đại biểu Quốc hội chỉnh lý các điều khoản cụ thể khác cả về nội dung cũng như về kỹ thuật cho phù hợp.


Trên đây là một số vấn đề cần tập trung thảo luận về dự án Luật, xin báo cáo các vị đại biểu Quốc hội.

 UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

Các văn bản liên quan