Các Trọng tài viên VIAC góp ý Dự thảo Bộ luật dân sự tại Hội thảo VCCI ngày 9/4/2015

Thứ Hai 15:01 13-04-2015

Hội thảo VCCI-Bộ Tư pháp                                                                           Hà Nội, 09-4-2015    

TỔNG HỢP GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI BLDS CỦA

TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC)

Nhóm tác giả: Các Trọng tài viên VIAC

Người tổng hợp: PGS.TS Đỗ Văn Đại – Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học pháp lý VIAC

Người trình bày: TS Nguyễn Minh Hằng – Trọng tài viên VIAC

DỰ THẢO

ĐỀ XUẤT CỦA VIAC

Điều 5. Nguyên tắc thiện chí, trung thực

Khi tham gia quan hệ dân sự, cá nhân, pháp nhân phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình một cách thiện chí, trung thực. Không ai được giành lợi thế cho mình từ hành vi trái pháp luật hoặc từ việc ứng xử không thiện chí, không trung thực.

Điều 5. Nguyên tắc thiện chí, trung thực

Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Trong BLDS hiện hành, nguyên tắc này không chỉ áp dụng trong việc “thực hiện” mà còn cả trong việc “xác lập” quyền, nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, Dự thảo đã giới hạn phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này ở giai đoạn “thực hiện” là không thuyết phục so với thực tiễn cũng như kinh nghiệm nước ngoài. Do đó, VIAC đề nghị khôi phục lại phạm vi điều chỉnh của thiện chí, trung thực ở cả giai đoạn xác lập cũng như thực hiện quyền và nghĩa vụ như nêu trên.

Điều 11. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự, được thừa nhận và áp dụng một cách rộng rãi, lặp đi lặp lại một thời gian dài trong một lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc một lĩnh vực hoạt động cụ thể mà không được quy định trong pháp luật.

2. Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán. Tập quán không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại mục 1 của Chương này, không vi phạm điều cấm của luật và những quy định bắt buộc trong hợp đồng.

Điều 11. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự, được thừa nhận và áp dụng một cách rộng rãi, lặp đi lặp lại một thời gian dài trong một lĩnh vực cụ thể mà không được quy định trong pháp luật.

2. Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán. Tập quán không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại mục 1 của Chương này, không vi phạm điều cấm của luật.

- Dự thảo kế thừa Nghị quyết của HĐTP liên quan tập quán nhưng cách liệt kê như vậy là không thuyết phục đối với văn bản như BLDS (mang tính chất khung nên khác với Nghị quyết với vai trò là văn bản hướng dẫn). Do đó, VIAC đề xuất viết khoản 1 ngắn gọn lại (nội dung điều luật không thay đổi): Đoạn “trong một lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc một lĩnh vực hoạt động cụ thể” được thay thế bằng đoạn “trong một lĩnh vực cụ thể”.

- Đoạn đặt thêm điều kiện để áp dụng tập quan sau (tại khoản 2) là không thuyết phục: ”và những quy định bắt buộc trong hợp đồng”. Bởi lẽ, đoạn đầu của khoản 2 đã giả định “các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định” nên sẽ không có “những quy định bắt buộc trong hợp đồng”. Nói cách khác, đoạn đầu và đoạn sau mâu thuẫn nhau. Do đó, VIAC đề xuất bỏ đoạn vừa nêu (đoạn sau).

Điều 134. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Điều 136. Hình thức giao dịch dân sự

2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức nhất định thì giao dịch dân sự phải được thể hiện theo hình thức đó.

Điều 134. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định phải tuân thủ một hình thức nhất định và khi không tuân thủ hình thức này thì giao dịch dân sự vô hiệu.

- Khoản 2 Điều 134 của Dự thảo (lấy lại từ khoản 2 Điều 122 BLDS hiện hành) khẳng định có trường hợp hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Tuy nhiên, nội dung quy định này không rõ ràng: Khi nào hình thức là điều kiện có hiệu lực thì lại chưa rõ ràng và đã dẫn đến sự lạm dụng trong thực tiễn. Khoản 2 Điều 136 Dự thảo (về cơ bản nhắc lại tinh thần của Điều 124 BLDS hiện hành) lại nhắc lại vấn đề về hình thức cũng không rõ ràng: Phải tuân thủ hình thức bắt buộc nhưng hình thức này có là điều kiện có hiệu lực của giao dịch không? Nội dung quy định của Dự thảo không có câu trả lời.

- Thực ra, hiện nay có hai loại quy định đề cập tới hình thức văn bản. Thứ nhất, luật quy định nói rõ giao dịch phải theo hình thức nhất định và luật cũng quy định luôn là giao dịch vô hiệu khi không tuân thủ hình thức này như quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010 (Điều 16 yêu cầu thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản và Điều 18 quy định nếu thỏa thuận trọng tài không được lập thành văn bản thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu). Thứ hai, luật quy định giao dịch phải tuân thủ một hình thức nhất định nhưng lại không cho biết hệ quả của việc không tuân thủ. Ví dụ, khoản 1 Điều 358 BLDS hiện hành quy định “Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản” nhưng Điều 358 này lại không cho biết hệ quả nếu không tuân thủ hình thức văn bản nên đã có Tòa án lạm dụng tuyên bố vô hiệu việc đặt cọc mặc dù các bên đều thừa nhận có đặt cọc và chứng minh được bằng việc đã chuyển khoản.

- Để quy định rõ ràng nhằm tránh lạm dụng (để tăng an toàn pháp lý cho các giao dịch), chúng ta cần làm rõ trường hợp nào một hình thức được coi là điều kiện có hiệu lực và chúng ta nên phát huy quy định như Luật trọng tài: Muốn coi một hình thức là điều kiện có hiệu lực thì phải nói rõ là nếu vi phạm thì vô hiệu. Còn ngược lại, thì đây không là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Chính vì vậy, VIAC đề xuất gộp khoản 2 Điều 134 và khoản 2 Điều 136 Dự thảo vào một điều và thêm đoạn in đậm vào khoản 2 Điều 134.

Điều 139. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Điều 139. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Điều cấm của luật là những quy định của luật nêu rõ không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

- Dự thảo đã có sự tiến bộ khi thay điều cấm của “pháp luật” bằng điều cấm của “luật”. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn chưa khắc phục được một thực trạng là trong nhiều trường hợp Luật không nói rõ là cấm hay cho phép nên đã bị thực tiễn lạm dụng để coi là cấm. Chẳng hạn, Luật đất đai cũ cũng như mới có liệt kê một số giao dịch về quyền sử dụng đất như mua bán, tặng cho, trao đổi... nhưng lại không liệt kê “cho mượn” hay “cầm cố” quyền sử dụng đất và rất nhiều bản án đã tuyên vô hiệu cầm cố quyền sử dụng đất trên cơ sở điều cấm. Thực trạng này cũng đang tồn tại đối với cầm cố nhà ở.

- Trong một xã hội hiện đại, chúng ta nên theo hướng các chủ thể được tự do và điều cấm chỉ được đưa ra khi cần thiết và một khi đã cấm thì phải nói rõ (nếu không nói rõ như quy định về nhà ở hay quyền sử dụng đất nêu trên thì không là điều cấm). Chính vì vậy, VIAC đề nghị thêm từ “nêu rõ” để chỉ chấp nhận là điều cấm khi luật có quy định rõ ràng về chủ đề này.

Điều 140. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì đối với người thứ ba, giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Điều 140. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì đối với người thứ ba, giao dịch dân sự đó vô hiệu.

- Cả Dự thảo và BLDS hiện hành đều xử lý giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba với điều kiện giao dịch đó là “giả tạo”. Thực ra, bản thân việc lập giao dịch “nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba” đã đáng bị lên án và như vậy không cần chứng minh thêm giả tạo. Hiện nay, chúng ta cũng đã có quy định theo hướng giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người khác đủ để vô hiệu hóa giao dịch đó mà không phải chứng minh tồn tại giả tạo. Ví dụ, theo khoản 2 Điều 42 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, “Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây (…)”. Ở đây, chỉ cần chứng minh được rằng giao dịch chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ là giao dịch này vô hiệu mà không cần phải chứng minh thêm rằng giao dịch này là “giả tạo”, tức không có thật.

- Trong thực tế, cha mẹ tặng cho con tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba rất phổ biến và rất khó chứng minh được giao dịch tặng cho này là giả tạo (vì người ta cho thật). Tuy nhiên, bản thân việc tặng cho tài sản để trốn tránh nghĩa vụ là đủ để vô hiệu hóa tặng cho và không cần chứng minh là có giả tạo hay không (việc chứng minh này không đơn giản và đôi khi cha mẹ cho thật thì không đủ điều kiện để vô hiệu hóa giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ). Chúng ta nên làm tương tự như Luật hôn nhân và gia đình mới được Quốc hội thông qua. Cụ thể, để bảo vệ người thứ ba và để hạn chế việc trốn tránh nghĩa vụ, VIAC đề xuất bỏ từ “giả tạo” trong khoản 2 (bỏ điều kiện về giả tạo).

Điều 145. Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức

1. Trường hợp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà hình thức đó không được tuân thủ thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:

a) Việc không tuân thủ quy định về hình thức không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch dân sự đã chuyển giao tài sản hoặc đã thực hiện công việc. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch dân sự đó;

b) Trường hợp chủ thể chưa chuyển giao tài sản hoặc chưa thực hiện công việc thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án cho phép thực hiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong một thời hạn hợp lý; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu.

Điều 145. Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức

1. Trường hợp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà hình thức đó không được tuân thủ thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:

a) Việc không tuân thủ quy định về hình thức không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch dân sự đã chuyển giao tài sản hoặc đã thực hiện công việc. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch dân sự đó;

b) Trường hợp chủ thể chưa chuyển giao tài sản hoặc chưa thực hiện công việc thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, Trọng tài cho phép thực hiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong một thời hạn hợp lý và quy định về hình thức được thực hiện.

- Dự thảo đã có sự tiến bộ về xử lý vi phạm hình thức nhưng vẫn còn có nhược điểm về chủ thể can thiệp vào lĩnh vực này. Theo điểm b khoản 1, chỉ Tòa án mới cho phép khắc phục hình thức bắt buộc. Với hướng này, chúng ta sẽ có tình trạng không có “lối thoát”: Nếu các bên có thỏa thuận trọng tài thì, theo Luật trọng tài, Tòa án không có thẩm quyền giải quyết nội dung tranh chấp nên sẽ không thể cho phép khắc phục hình thức. Đồng thời, trong trường hợp này, Trọng tài có thẩm quyền theo Luật trọng tài nhưng Dự thảo BLDS lại không trao cho Trọng tài quyền cho phép khắc phục hình thức (do Dự thảo BLDS chỉ nói đến tòa án). Chính vì vậy, VIAC đề xuất thêm từ “trọng tài” vào bên cạnh từ “Tòa án”.

- Dự thảo còn có nhược điểm nữa là đoạn đầu của khoản 1 khẳng định giao dịch vô hiệu và đoạn sau đưa ra ngoại lệ (tức không vô hiệu) nhưng đọc kỹ điểm b thì nội dung quy định lại theo hướng giao dịch vô hiệu (chứ không phải là không vô hiệu). Để điểm b (cũng như điểm a) là ngoại lệ của vô hiệu (tức không vô hiệu) thì nội dung của điểm b phải theo hướng giao dịch không vô hiệu. Do đó, VIAC đã đề xuất bỏ nội dung xác định giao dịch vô hiệu ở đoạn cuối điểm b và thay vào đó là phần in nghiêng theo hướng giao dịch nêu tại điểm b là không vô hiệu.

Điều 146. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc thực hiện giao dịch dân sự sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong thực hiện giao dịch dân sự và chi phí làm phát sinh, bảo quản hoặc phát triển tài sản, hoa lợi, lợi tức.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.

6. Các bên không được nhận lại tài sản, hoa lợi, lợi tức nếu theo quy định của pháp luật những tài sản này bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.

Điều 146. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc thực hiện giao dịch dân sự sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong thực hiện giao dịch dân sự và chi phí làm phát sinh, bảo quản hoặc phát triển tài sản, hoa lợi, lợi tức.

Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.

6. Các bên không được nhận lại tài sản, hoa lợi, lợi tức nếu theo quy định của luật những tài sản này bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.

- Khi giao dịch vô hiệu thì phải khôi phục lại tình trạng ban đầu. Tuy nhiên, BLDS quy định các bên “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” còn Dự thảo theo hướng “hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận”. Nói cách khác, Dự thảo đã thu hẹp lại đối tượng phải hoàn trả: BLDS theo hướng hoàn trả “những gì đã nhận” trong khi đó những gì đã nhận có thể là tài sản và những thứ không là tài sản (ví dụ như giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà được giao cùng nhà: Nhà là tài sản còn giấy chứng nhận không là tài sản theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao). Ngược lại, Dự thảo theo hướng hoàn trả cho nhau “tài sản” đã nhận (tức trong ví dụ trên chỉ phải hoàn trả nhà còn không phải hoàn trả giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà). Đối tượng hoàn trả trong BLDS là “những gì đã nhận” còn đối tượng hoàn trả trong Dự thảo là “tài sản đã nhận”. Khi thực hiện giao dịch, các bên không chỉ giao cho nhau tài sản (như quyền sử dụng đất, tiền, xe...) mà cả những gì không là tài sản (mà vẫn không mang tính nhân thân) như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (xe, nhà...) không được Tòa án tối cao coi là tài sản. Những thứ này vẫn phải hoàn trả nên việc thu hẹp lại như Dự thảo là không thuyết phục. Do đó, VIAC đề xuất khôi phục lại quy định cũ của BLDS là “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”: Từ “tài sản” trong Dự thảo được thay thế bằng từ “những gì”.

- Cả BLDS và Dự thảo đều theo hướng tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức có thể bị tịch thu (sung quỹ nhà nước) “theo quy định của pháp luật”. Theo Hiến pháp năm 2013, quyền sở hữu là một quyền cơ bản của con người, của công dân (Điều 32) và khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp khẳng định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”. Như vậy, chỉ có Luật (văn bản do Quốc hội ban hành) mới được hạn chế quyền sở hữu trong khi đó tịch thu là một hạn chế đối với quyền sở hữu tư nhân. Do đó, để phù hợp với Hiến pháp mới, VIAC đề xuất thay từ “luật” vào vị trí của “pháp luật” trong khoản 6 Điều 147 Dự thảo.

Không có

Điều. Bồi thường thiệt hại trong giai đoạn giao kết hợp đồng

Trong trường hợp không thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, bên bị lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn được quyền yêu cầu bù đắp bằng lợi ích khác.

- Liên quan đến trường hợp giao dịch được xác lập do có nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, BLDS cũng như Dự thảo chỉ đề cập tới vô hiệu giao dịch. Trong thực tế xét xử tại Tòa án Việt Nam, đã có trường hợp giao dịch được xác lập có lừa dối nhưng bên bị lừa dối không muốn vô hiệu giao dịch và chuyển sang yêu cầu bồi thường. Quy định hiện hành cũng như Dự thảo chưa dự liệu trường hợp này (bồi thường thiệt hại nêu ở trên chỉ là hệ quả của giao dịch vô hiệu, tức phải tuyên giao dịch vô hiệu rồi mới đặt vấn đề bồi thường).

- Trong hoàn cảnh nêu trên, thực tiễn xét xử đã theo hướng chấp nhận cho giữ lại giao dịch và bên bị lừa dối được quyền yêu cầu giảm giá tài sản. Hướng giải quyết trong án lệ này là thuyết phục và nên luật hóa. Vì vậy, VIAC nên thêm quy định sau vào Dự thảo.

Điều 176. Thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu

1. Thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 141, Điều 142, Điều 143 và Điều 144 của Bộ luật này là ba năm kể từ ngày:

a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện hành vi;

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết hành vi được xác lập do nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép.

2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 139 và Điều 140 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

3. Hết thời hạn được quy định tại Điều này mà người có quyền không yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự đó có hiệu lực.

Điều 176. Thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu

1. Thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 141, Điều 142, Điều 143, Điều 144 và Điều 145 của Bộ luật này là ba năm kể từ ngày:

a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện hành vi;

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết hành vi được xác lập do nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d) Giao dịch được xác lập đối với vô hiệu về hình thức.

2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 139 và Điều 140 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

3. Hết thời hạn được quy định tại Điều này mà người có quyền không yêu cầu giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự đó có hiệu lực.

- Dự thảo theo hướng có 02 loại thời hiệu và liệt kê những trường hợp thuộc mỗi loại này. Tuy nhiên, danh sách này không đầy đủ và cần nghiên cứu bổ sung. Chẳng hạn, trong Dự thảo cũng như trong BLDS đều có trường hợp giao dịch vô hiệu do không thể thực hiện được (Điều 411 BLDS và Điều 430 Dự thảo) nhưng chúng ta lại không biết thời hiệu là bao lâu. Do đó, cần rà soát lại xem những trường hợp vô hiệu trong BLDS và bổ sung vào một trong hai danh sách vừa nêu nếu Dự thảo vẫn theo hướng liệt kê.

- Dự thảo cũng giống BLDS là chia ra hai loại thời hiệu và có liệt kê những trường hợp thuộc mỗi loại này. Tuy nhiên, Dự thảo lại không đề cập tới thời hiệu đối với giao dịch vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức được quy định tại Điều 145: Trong BLDS hiện nay là 2 năm giống như trường hợp nhầm lẫn, lừa dối còn trong Dự thảo chúng ta không biết thuộc loại nào. BLDS hiện nay theo hướng thời hiệu 2 năm và thực tiễn theo hướng giao dịch vi phạm về hình thức hết thời hiệu 2 năm có giá trị pháp lý. Do đó, VIAC đề nghị bổ sung vấn đề thời đối với giao dịch vi phạm hình thức cùng với thời hiệu của lừa dối, đe dọa (Dự thảo hiện nay theo hướng 03 năm cho vô hiệu do có lừa dối thì cũng áp dụng cho vi phạm hình thức). Cụ thể, VIAC đề xuất thêm Điều 145 trong thời hiệu 3 năm và thêm điểm d về bắt đầu thời hiệu (như BLDS hiện hành).

Điều 149. Đại diện

1. Đại diện là việc một cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là bên được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Trường hợp pháp luật quy định thì bên đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

Điều 149. Đại diện và năng lực của bên đại diện

1. Đại diện là việc một cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là bên được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Trường hợp pháp luật quy định thì bên đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

Tên Điều trên trùng với tên Chương “Đại diện”. Xét về logic, thì tên điều không được phép trùng với tên chương, mục có nhiều điều (trừ chương chỉ có 1 điều thì lại buộc phải trùng), vì như vậy thì tên chương, mục chỉ thể hiện được một phần nội dung bên trong, không bao quát được vấn đề. Vì vậy, VIAC đề xuất sửa đổi tên Điều thành “Đại diện và năng lực của bên đại diện”.

Điều 152. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

1. Người đại diện theo pháp luật được pháp nhân quyết định theo điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh pháp nhân xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phù hợp với quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì mỗi người có quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình; trường hợp điều lệ hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền không xác định rõ thẩm quyền của mỗi đại diện theo pháp luật thì giao dịch dân sự đó được coi là thực hiện đúng thẩm quyền.

Điều 152. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

1. Người đại diện theo pháp luật được pháp nhân quyết định theo điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh pháp nhân xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phù hợp với quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì giao dịch dân sự do bất kỳ người đại diện nào thực hiện đều được coi là đúng thẩm quyền.

Quy định mỗi người đại diện theo pháp luật có quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình được xác định rõ theo điều lệ hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền sẽ là một rủi ro pháp lý rất đáng ngại cho các đối tác giao dịch. Vì như vậy thì đồng nghĩa với việc đòi hỏi các đối tác phải biết rõ thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Trong khi không có cơ sở để xác định chắc chắn đâu là điều lệ hiện hành và chính xác của pháp nhân. Đây hoàn toàn là công việc nội bộ của pháp nhân, vì vậy pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với việc xác lập, thực hiện giao dịch của nhân viên mình nói chung, của người đại diện theo pháp luật nói riêng. Do đó, VIAC đề xuất theo hướng giao dịch do bất kỳ đại diện nào cũng được coi là đúng thẩm quyền.

Điều 153. Đại diện theo ủy quyền

1. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

Điều 153. Đại diện theo ủy quyền

1. Cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể cử cá nhân, pháp nhân đại diện theo ủy quyền trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

- Khoản 1 Điều luật trên của Dự thảo chỉ quy định cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác. Quy định “người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền” là việc chỉ đích danh một cá nhân uỷ quyền, tuy không sai nhưng không đúng bản chất của vấn đề. Ở đây, chủ thể ủy quyền là pháp nhân chứ không phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân (người này chỉ tiến hành việc ủy quyền trên danh nghĩa của pháp nhân). Do đó, VIAC đề xuất bỏ từ “người đại diện thay pháp luật của” để thể hiện rõ chủ thể ủy quyền là pháp nhân.

- Khoản 2 thừa chữ “khác” sau từ pháp nhân, vì “hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác” đều không phải là pháp nhân, thì chỉ uỷ quyền cho pháp nhân, chứ không có pháp nhân nào khác nữa. Vì vậy, VIAC đề xuất bỏ từ “khác” in đậm nêu trên.

156. Phạm vi quyền đại diện

1. Phạm vi quyền đại diện được xác định theo nội dung ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp luật.

2. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi quyền đại diện.

3. Trường hợp phạm vi quyền đại diện không được xác định cụ thể thì bên đại diện có quyền nhân danh bên được đại diện xác lập, thực hiện hành vi cần thiết, hợp lý trong quản lý tài sản, đáp ứng nhu cầu thiết yếu và bảo vệ quyền, lợi ích của bên được đại diện.

156. Phạm vi quyền đại diện

1. Phạm vi quyền đại diện được xác định theo nội dung ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp luật.

2. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi quyền đại diện.

3. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền.

4. Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp luật có quy định khác.

- Khoản 3 điều luật trên của Dự thảo buộc chúng ta phải xem xét giao dịch do người đại diện xác lập “cần thiết, hợp lý trong quản lý tài sản, đáp ứng nhu cầu thiết yếu và bảo vệ quyền, lợi ích của bên được đại diện hay không”. Quy định này quá nguy hiểm cho người thứ ba ngay tình, nhất là khi xác lập với đại diện của pháp nhân và trong điều lệ của pháp nhân có những giới hạn về thẩm quyền đại diện. Đây sẽ là cái “bẫy nguy hiểm” cho người ngay tình và là công cụ để “lừa gạt nhau”.

- Thực ra, BLDS hiện hành đã có quy định thuyết phục về xác định phạm vi đại diện tại khoản 1 và 2 Điều 144. Các quy định trong BLDS hiện hành bảo vệ rất tốt người thứ ba và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Do đó, VIAC đề xuất bỏ khoản 2 trong điều luật trên của Dự thảo và thay vào đó lấy lại khoản 1 và khoản 2 Điều 144 BLDS hiện hành như phần in nghiêng đậm nêu trên (với một chút thay đổi là thay từ “pháp luật” bằng từ “luật” để thống nhất với xu hướng để Luật điều chỉnh quan hệ tư hơn là pháp luật theo nghĩa rộng).

Điều 158. Thông báo về phạm vi quyền đại diện

Bên đại diện phải thông báo cho bên thứ ba biết về phạm vi quyền đại diện của mình. Trường hợp bên đại diện không thông báo thì coi như họ nhân danh chính mình trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp bên thứ ba biết hoặc phải biết về phạm vi quyền đại diện hoặc pháp luật có quy định khác.

Điều 158. Thông báo về phạm vi quyền đại diện

Bên đại diện phải thông báo cho bên thứ ba biết về phạm vi quyền đại diện của mình.

- Đoạn đầu của Điều luật trên chính là khoản 4 Điều 144 BLDS hiện hành. Tuy nhiên, đoạn in đậm là quy định mới được bổ sung. Quy định này quá nguy hiểm cho người thứ ba và sẽ gây phiền phức cho vấn đề tố tụng vì người chịu trách nhiệm thực hiện không phải là người được đại diện mà là người đại diện (nên nếu đã khởi kiện rồi thì phải làm lại thủ tục do chủ thể thực hiện được thay đổi).

- Quy định bổ sung như trên không thấy tồn tại trong các Bộ nguyên tắc lớn về hợp đồng. Đây là quy định “độc đáo” nhưng chứa đựng rất nhiều “độc hại”. Do đó, VIAC đề xuất bỏ phần in đậm nêu trên.

Điều 161. Hậu quả của giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

1. Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện đối với bên thứ ba, trừ các trường hợp sau đây:

a) Bên thứ ba có căn cứ để tin tưởng bên xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình có quyền đại diện và không có lỗi về việc đã tin tưởng đó;

b) Bên thứ ba yêu cầu bên được đại diện trả lời về việc công nhận hay không công nhận giao dịch dân sự nhưng bên được đại diện không thể hiện ý chí rõ ràng trong thời hạn hợp lý về việc không công nhận giao dịch dân sự;

c) Bên được đại diện đã công nhận giao dịch dân sự trước khi bên thứ ba tuyên bố hủy bỏ giao dịch dân sự.

Điều 161. Hậu quả của giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

1. Giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện đối với bên thứ ba, trừ các trường hợp sau đây:

a) Bên thứ ba có căn cứ để tin tưởng bên xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình có quyền đại diện và không có lỗi về việc đã tin tưởng đó;

b) Bên được đại diện đã công nhận giao dịch dân sự trước khi bên thứ ba tuyên bố hủy bỏ giao dịch dân sự.

(...).

5. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện.

Theo Dự thảo, giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện vẫn làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện đối với bên thứ ba trong trường hợp “Bên thứ ba yêu cầu bên được đại diện trả lời về việc công nhận hay không công nhận giao dịch dân sự nhưng bên được đại diện không thể hiện ý chí rõ ràng trong thời hạn hợp lý về việc không công nhận giao dịch dân sự”. Quy định như vậy quá khắt khe với bên được đại diện và đôi khi nguy hiểm đối với người được đại diện khi có sự thông đồng giữa người đại diện và người thứ ba. Do đó, VIAC đề xuất bỏ điểm b nêu trên (điểm c trở thành điểm b) và giữ lại tinh thần quy định cũ của BLDS về chủ này (bằng cách thêm một khoản nữa nêu lại tinh thần nội dung quy định cũ: Hiện nay đã có 4 khoản nên thêm khoản 5).

Điều 385. Thiệt hại do không thực hiện đúng nghĩa vụ

1. Thiệt hại do không thực hiện đúng nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

2. Thiệt hại về vật chất là những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

3. Thiệt hại về tinh thần là những tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc tài sản của người đó.

Điều 385. Thiệt hại do không thực hiện đúng nghĩa vụ

1. Thiệt hại do không thực hiện đúng nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

2. Thiệt hại về vật chất là những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

3. Thiệt hại về tinh thần là những tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến các lợi ích nhân thân hoặc lợi ích tài sản của một chủ thể.

Theo khoản 3 Điều 385 Dự thảo, “Thiệt hại về tinh thần là những tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc tài sản của người đó”. Ở đây, Dự thảo theo hướng liệt kê những trường hợp làm phát sinh tổn thất về tinh thần nhưng sự liệt kê này không đầy đủ. Chẳng hạn, thực tế đã có trường hợp xâm phạm tới quyền tự do tín ngưỡng và việc xâm phạm này có thể phát sinh tổn thất về tinh thần nhưng BLDS cũng như Dự thảo không liệt kê. Do đó, Dự thảo nên có quy định khái quát cao hơn và VIAC đề xuất khoản 3 viết lại như nêu trên.

Điều 418. Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự

Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị.

Điều 419. Trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự

Trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị.

Điều 418. Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự

Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp hợp đồng phải do chính cá nhân người đề nghị thực hiện.

Điều 419. Trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự

Trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp hợp đồng phải do chính cá nhân người chập nhận thực hiện.

- Theo khoản 3 Điều 424 BLDS hiện hành, “hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Cá nhân giao kết hợp đồng chết mà hợp đồng phải do chính cá nhân đó thực hiện”. Quy định này theo hướng phân biệt hai loại hợp đồng: Đối với hợp đồng do chính cá nhân người xác lập thực hiện thì hợp đồng chấm dứt khi cá nhân chết; còn đối với trường hợp ngược lại, hợp đồng vẫn được duy trì cho dù cá nhân đó chết. Tuy nhiên, quy định vừa nêu áp dụng cho chấm dứt hợp đồng, tức hợp đồng đã được giao kết và có hiệu lực pháp luật, nên không phù hợp với hoàn cảnh mà chúng ta đang nghiên cứu (chúng ta đang ở giai đoạn giao kết hợp đồng). Chúng ta nên kế thừa tinh thần của khoản 3 Điều 424 BLDS hiện hành cho giai đoạn giao kết hợp đồng và nên có thêm quy định tương tự đối với đề nghị giao kết hợp đồng hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đối với hợp đồng phải do chính cá nhân thực hiện.

- Nói cách khác, chúng ta nên bổ sung một ngoại lệ cho việc duy trì đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong Dự thảo. Chính vì vậy, VIAC đề nghị bổ sung phần in nghiêng nêu trên.

Điều 423. Thời điểm giao kết hợp đồng

1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng được tính từ thời điểm cuối cùng của thời hạn trả lời giao kết.

3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.

4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng vào văn bản.

Điều 423. Thời điểm giao kết hợp đồng

1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng thời điểm cuối cùng của thời hạn trả lời giao kết.

3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.

4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng vào văn bản hay hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.

Trong trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3.

- Việc sửa đổi tại khoản 2 theo hướng làm rõ thời điểm hợp đồng được giao kết thông qua im lặng là cần thiết. Tuy nhiên, việc Dự thảo quy định giao kết “được tính từ” là không thuyết phục vì chúng ta đang bàn về “thời điểm nào” chứ không bàn về “từ thời điểm nào” hợp đồng được giao kết. Chúng ta đang bàn về “thời điểm hợp đồng được giao kết”, chứ không bàn về thời điểm hợp đồng “có hiệu lực”. Hơn nữa các khoản khác của Điều 423 Dự thảo đều theo hướng xác định “thời điểm” chứ không theo hướng “tính từ thời điểm”. Do đó, VIAC đề xuất thay cụm từ “được tính từ” thành “” cho đúng với hoàn cảnh.

- BLDS và Dự thảo không có sự thay đổi về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản. Khoản 4 Điều luật trên quy định “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng vào văn bản”. Khoản 4 chỉ đề cập tới một hình thức chấp nhận trên văn bản là chữ nhưng thực thế có thể có chấp nhận hợp đồng theo hình thức khác như điểm chỉ, đóng dấu. Do đó, VIAC đề xuất khoản 4 của Dự thảo bổ sung hình thức chấp nhận khác và có thể viết như sau: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay hình thức chấp nhận khác được thể hiện trong văn bản”.

- Điều luật trên đề cập tới xác định thời điểm hợp đồng được giao kết bằng miệng (khoản 3) và bằng văn bản (khoản 4). Trong thực tế thường xảy ra trường hợp giao kết bằng miệng nhưng xác nhận lại bằng văn bản (như mua bảo hiểm qua điện thoại nhưng xác nhận lại bằng văn bản). Trong những trường hợp này điều luật chưa rõ và thực tiễn cũng khá lúng túng. Ðể làm rõ vấn đề, VIAC đề nên thêm đoạn sau sau khoản 3 và 4: “Trong trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3”.

Không có

Điều. Thông tin trong giao kết hợp đồng

1. Trong quá trình giao kết hợp đồng, bên có thông tin có thể ảnh hưởng đến quyết định giao kết thì phải thông báo cho bên kia.

2. Trong quá trình giao kết hợp đồng, bên nhận được thông tin bảo mật của bên kia có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình.

3. Bên nào vi phạm các quy định trên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường và bên kia được quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi việc vi phạm này hội đủ các điều kiện của lừa dối.

- Thông tin rất cần thiết trong giai đoạn giao kết hợp đồng và đã được một số hệ thống luật hóa. Pháp đang tiến hành sửa đổi BLDS và các Dự thảo được công bố có quy định về chủ đề này. Châu Âu đã cho công bố Dự thảo tham chiếu chung trong đó có nội dung liên quan đến hợp đồng cũng có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng.

- Trong thực tiễn, trên cơ sở quy định về lừa dối hay trung thực, thiện chí, Tòa án của chúng ta đã theo hướng bên có thông tin quan trọng (như liên quan đến nhà hay đất chuyển nhượng) phải cung cấp cho bên kia. Đây là hướng giải quyết thuyết phục vì thông tin rất cần thiết cho giai đoạn giao kết. Do đó, cùng với kinh nghiệm nước ngoài nêu trên, VIAC đề xuất nên luật hóa nội dung này và đề xuất một điều luật mới về nghĩa vụ thông tin tiền hợp đồng.

Điều 430. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

1. Trường hợp ngay từ khi kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được lý do khách quan thì hợp đồng bị vô hiệu.

Điều 430. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng bị vô hiệu.

- Điều khoản trên đã tồn tại ở Điều 411 BLDS hiện hành và thực tiễn vận dụng điều luật này cả cho trường hợp không thể thực hiện được vì lý do “chủ quan” như trường hợp các bên không thỏa thuận về tứ cận của mảnh đất được chuyển nhượng hay đời máy cụ thể nên hợp đồng không thể thực hiện được. Thực ra, việc khoanh vùng như hiện nay không thuyết phục vì nếu áp dụng đúng luật thì việc không thể thực hiện được vì lý do chủ quan không làm cho hợp đồng vô hiệu nhưng nếu hợp đồng không vô hiệu thì hợp đồng cũng không thể thực hiện được và trong trường hợp này phải làm gì? Câu hỏi không có câu trả lời thuyết phục. Do đó, VIAC đề nghị bỏ lý do “khách quan” làm cho hợp đồng không thể thực hiện được (tức nguyên nhân nào làm cho hợp đồng không thể thực hiện được cũng làm cho hợp đồng vô hiệu). Đây cũng là hướng trong Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng và pháp luật của Đức hiện nay (lý do khách quan hay chủ quan không ảnh hưởng tới khả năng vô hiệu của hợp đồng mà chỉ ảnh hướng tới lỗi làm phát sinh trách nhiệm bồi thường).

- BLDS hiện hành và Dự thảo nói về “ký” kết hợp đồng nhưng thuật ngữ này không có tính bao quát vì ký kết chỉ đúng cho hợp đồng bằng văn bản có chữ ký trong khi đó hợp đồng có thể được hình thành mà không có chữ ký (như hợp đồng miệng, hợp đồng được giao kết thông qua im lặng...). Để có tính bao quát hơn, VIAC kiến nghị thay đổi từ “ký” kết bằng từ “giao” kết.

Điều 431. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng

Việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

1. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác;

2. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau.

Bỏ

- Khoản 1 thực chất là cụ thể hóa nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nêu tại Điều 4 Dự thảo. Do đó, có sự trùng lặp không cần thiết và dễ dẫn đến lạm dung. Do đó, VIAC đề xuất bỏ.

- Khoản 2 cũng chỉ cụ thể hóa nguyên tắc Thiện chí, trung thực đã nêu ở trên nên VIAC cũng đề xuất bỏ với lý do nêu trên.

Điều 441. Thoả thuận phạt vi phạm

1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.

3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Điều 441. Thoả thuận phạt vi phạm

1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm, không phụ thuộc vào thiệt hại thực tế.

2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận. Tòa án, Trọng tài có quyền giảm hay tăng mức phạt đã thỏa thuận nếu có một bên yêu cầu và bên này chứng minh được rằng mức phạt theo thỏa thuận quá cao hay quá thấp so với thiệt hại thực tế.

3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên không có thoả thuận về kết hợp giữa bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

- VIAC muốn làm rõ bản chất của phạt vi phạm là sự tồn tại của nó phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên nhưng không phụ thuộc vào thiệt hại thực tế nên đã thêm đoạn “không phụ thuộc vào thiệt hại thực tế” tại khoản 1.

- VIAC đề xuất thêm khả năng để cơ quan tài phán có quyền tăng hay giảm mức phạt trên cơ sở thiệt hại thực tế. Đây là hướng được ghi nhận rộng rãi trong pháp luật hiện đại về hợp đồng như Bộ nguyên tắc Unidroit, Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng... và rất cần thiết đối với hợp đồng dân sự vì, khác với hợp đồng thương mại (mức thỏa thuận không được vượt quá 8%), các bên được tự chủ xác định mức phạt nên mức phạt có thể quá lớn hay quá nhỏ so với thiệt hại (do đó, sự can thiệp của Tòa án hay Trọng tài là cần thiết để giảm bớt bất công bằng).

- Khoản 2 điều luật trên quy định về phạt vi phạm hợp đồng khi có thỏa thuận nhưng lại có thêm quy định rằng “nếu không có thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”. Quy định này không liên quan đến phạt vi phạm mà liên quan đến bồi thường nên không phù hợp ở điều luật này (đã được quy định trong phần bồi thường thiệt hại). Do đó, VIAC đề nghị bỏ nội dung này và chuyển về quy định về bồi thường thiệt hại.

- Đoạn cuối của điều luật trên thực chất là quy định đã tồn tại trong Điều 422 BLDS hiện hành và cụm từ “Trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại” đã làm cho nhiều nhà nghiên cứu, luật sư, thẩm phán hiểu rằng, để có bồi thường thiệt hại, cần có “thỏa thuận”. Cách hiểu như vậy đã làm biến dạng chế định bồi thường thiệt hại vì bồi thường thiệt hại đương nhiên được áp dụng theo quy định của pháp luật chứ không cần thỏa thuận. Thực chất ý của đoạn trên là bàn về mối quan hệ giữa bồi thường và phạt vi phạm (về sự kết hợp hay không kết hợp). Để tránh làm phát sinh các cách hiểu khác nhau như trên, VIAC đề xuất làm rõ đoạn nêu trên về sự kết hợp giữa hai chế định này.

Điều 443. Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi

1. Trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng.

2. Hoàn cảnh thay đổi dẫn tới điều chỉnh hợp đồng được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa lợi ích của các bên và bảo đảm các điều kiện sau đây:

a) Hoàn cảnh thay đổi sau khi hợp đồng đã được giao kết;

b) Việc hoàn cảnh thay đổi là không thể lường trước được một cách hợp lý vào thời điểm giao kết hợp đồng;

c) Rủi ro phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh không phải là rủi ro mà bên bị ảnh hưởng đáng phải gánh chịu.

3. Trường hợp các bên không đạt được thoả thuận trong một khoảng thời gian hợp lý thì toà án có thể:

a) Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều khoản do toà án quyết định;

b) Điều chỉnh hợp đồng để phân chia cho các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh một cách công bằng và bình đẳng.

Tuỳ theo từng trường hợp, toà án có thể buộc bên từ chối đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí, trung thực phải bồi thường thiệt hại.

Điều 443. Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi

1. Trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì bên bị ảnh hưởng có quyền đề nghị thương lượng điều chỉnh hợp đồng. Các bên tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quá trình thương lượng điều chỉnh hợp đồng.

2. Hoàn cảnh thay đổi dẫn tới điều chỉnh hợp đồng được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa lợi ích của các bên và bảo đảm các điều kiện sau đây:

a) Hoàn cảnh thay đổi sau khi hợp đồng đã được giao kết;

b) Việc hoàn cảnh thay đổi là không thể lường trước được một cách hợp lý vào thời điểm giao kết hợp đồng;

c) Rủi ro phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh không phải là rủi ro mà bên bị ảnh hưởng đáng phải gánh chịu.

3. Trường hợp các bên không đạt được thoả thuận trong một khoảng thời gian hợp lý thì toà án, trọng tài có thể:

a) Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều khoản do toà án, trọng tài quyết định;

b) Điều chỉnh hợp đồng để phân chia cho các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh một cách công bằng và bình đẳng.

- Theo khoản 1 Điều 443 Dự thảo, trong trường hợp thay đổi hoàn cảnh “thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng”. Cụm từ được in đậm có hai nhược điểm: Thứ nhất, việc sử dụng thuật ngữ “cho phép” các bên điều chỉnh hợp đồng mang tính “cấp phép”, “hành chính” trong khi đó đây là vấn đề giữa các bên trong quan hệ hợp đồng (tức quan hệ tư) thì chúng ta cần hạn chế những quy phạm mang tính hành chính hay thể hiện ý tưởng “hành chính”. Thứ hai, cụm từ trên cho phép “các bên điều chỉnh hợp đồng”. Thực ra, việc “các bên” cùng nhau điều chỉnh hợp đồng là lẽ đương nhiên vì hợp đồng do “các bên” tạo ra thì “các bên” đương nhiên có thể cùng nhau điều chỉnh lại hợp đồng. Vì vậy, việc quy định “các bên” điều chỉnh hợp đồng là không cần thiết. Thực ra, khó khăn trong thực tế là “các bên” không điều chỉnh được hợp đồng do một bên không hợp tác để điều chỉnh và lúc này pháp luật nên can thiệp để mở đường cho việc điều chỉnh lại hợp đồng.            Chính vì lẽ đó mà, khi xảy ra hoàn cảnh thay đổi, Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế quy định “bên bị tổn hại có thể đề nghị mở thương lượng lại hợp đồng” và “yêu cầu này phải nêu rõ lý do” (Điều 6.2.3). VIAC đề xuất theo hướng nêu trên và đã điều chỉnh khoản 1 Điều 443 của Dự thảo.

- Khi các bên tiến hành thương lượng điều chỉnh hợp đồng, tâm lý của bên phải thực hiện là họ hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình. Chừng nào hợp đồng chưa được điều chỉnh lại hay chưa bị Tòa án (Trọng tài) cho chấm dứt thì hợp đồng vẫn có hiệu lực thực hiện giữa các bên. Do đó, các bên phải thực hiện cho dù các bên tiến hành thương lượng hợp đồng. Vì vậy, nhiều hệ thống luật đã quy định rõ không cho phép hoãn và VIAC đề xuất theo hướng này tại khoản 1 Điều 443 của Dự thảo. Với hướng này, chúng ta còn hạn chế được trường hợp một bên lạm dụng quy định về thay đổi hoàn cảnh để hoãn thực hiện hợp đồng.

- Ở đây, Dự thảo cũng chỉ đề cập tới vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của Trọng tài. Sự bỏ quên nêu trên sẽ dẫn tới bất cập trong quá trình vận dụng khi các bên có thỏa thuận trọng tài vì lúc này Tòa án không có thẩm quyền theo Luật trọng tài còn Trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của Dự thảo. Do đó, VIAC đề xuất bổ sung từ “Trọng tài” vào bên cạnh từ Tòa án.

- Trong Dự thảo, chúng ta hướng các bên tới đàm phán, thương lượng đồng thời đưa ra quy định trong trường hợp việc đàm phán, thương lượng bất thành. Việc xử lý người không thiện chí, trung thực là cần thiết. Tuy nhiên, quy định như vậy trong đoạn cuối của điều luật là không cần thiết vì hướng giải quyết này đã tồn tại trong khuôn khổ chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, điều đó có nghĩa là việc vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực thông qua từ chối đàm phán, phá vỡ đàm phán đã được quy đinh ở chỗ khác. Để điều luật cô đọng, VIAC đề nghị bỏ quy định vừa nêu mà nội dung điều chỉnh vẫn không thay đổi trong BLDS.

Điều 452. Hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng

1. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì các bên tham gia được miễn trừ khỏi các nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt.

2. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được thì hợp đồng chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Nếu không hoàn trả được nghĩa vụ bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Khi cả hai bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì các nghĩa vụ này phải được thực hiện trong cùng một thời điểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ hoàn trả lại tiền do hợp đồng bị huỷ phải hoàn trả thêm lợi nhuận của số tiền đó tính từ ngày bên đó nhận được tiền. Trường hợp phải hoàn trả lại vật đã nhận thì phải hoàn trả lại cả những nguồn lợi phát sinh từ vật đó.

4. Việc huỷ bỏ hợp đồng không được gây ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba.

Điều 452. Hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng

1. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì các bên tham gia được miễn trừ khỏi các nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

2. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được thì hợp đồng chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Nếu không hoàn trả được nghĩa vụ bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Khi cả hai bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì các nghĩa vụ này phải được thực hiện trong cùng một thời điểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ hoàn trả lại tiền do hợp đồng bị huỷ phải hoàn trả thêm lợi nhuận của số tiền đó tính từ ngày bên đó nhận được tiền. Trường hợp phải hoàn trả lại tài sản đã nhận thì phải hoàn trả lại cả những nguồn lợi phát sinh từ tài sản đó.

4. Việc huỷ bỏ hợp đồng không được gây ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba.

- Khoản 1 theo hướng “Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì các bên tham gia được miễn trừ khỏi các nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại” (khoản 1 Điều 452). Khi bị hủy bỏ, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và nội hàm vừa nêu đã thể hiện điều này. Tuy nhiên, có những thỏa thuận vẫn còn giá trị như thỏa thuận trọng tài hay thỏa thuận về phạt vi phạm, thỏa thuận về bồi thường thiệt hại nhưng Dự thảo chỉ bảo lưu vấn đề bồi thường thiệt hại. Chúng ta nên kế thừa ưu điểm của Luật thương mại (Điều 314) về chủ đề này và theo hướng sau : “Hủy bỏ hợp đồng không ảnh hưởng đến các thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp”.

- Theo khoản 2 (nhắc lại khoản 3 Điều 425 BLDS), “Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận”. Ở đây, chúng ta chỉ buộc “các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận” trong khi đó khi thực hiện hợp đồng các bên có thể chuyển giao cho nhau những thứ không là tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nhà, xe hay giấy tờ không có giá khác). Do đó, chúng tôi đề xuất thay đoạn trên thành “các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” để bao quát mọi tình huống giống.

- Khoản 3 chỉ đề cập đến hoàn trả hoa lợi, lợi tức khi hợp đồng bị hủy bỏ nhưng chỉ giới hạn ở “vật”. Thực tế, có trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh không từ “vật” mà là tài sản khác như “quyền sử dụng đất”. Do đó, VIAC đề xuất thay từ “vật” bằng từ “tài sản” để có tính khái quát cao.

Điều 396. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ

Nghĩa vụ chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

10. Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ dân sự không còn và không được thay thế bằng nghĩa vụ khác;

Điều 445. Chấm dứt hợp đồng

Hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại;

Điều 396. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ

Nghĩa vụ chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

10. Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ dân sự không còn;

Điều 445. Chấm dứt hợp đồng

Hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;

- BLDS cũng như Dự thảo (khoản 5 Điều 445) đều quy định hợp đồng chấm dứt trong trường hợp “Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại”. Với quy định của khoản 5, hợp đồng chỉ chấm dứt khi thỏa mãn thêm điều kiện khác (đề in đậm) trong trường hợp “đối tượng của hợp đồng không còn”. Thực ra, khi đối tượng của hợp đồng không còn thì hợp đồng phải chấm dứt (vì nếu không chấm dứt thì phải thực hiện như thế nào?). Do đó, việc đặt thêm điều kiện (in đậm) là không cần thiết và VIAC đề xuất bỏ nội dung này.

- Trong phần nghĩa vụ dân sự, chúng ta cũng có quy định như trên. Cụ thể, theo khoản 10 Điều 396 Dự thảo “Nghĩa vụ chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ dân sự không còn và không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Theo VIAC, đoạn in đậm cũng nên được bỏ vì các lý do nêu trên.

Điều 459. Phương thức giao tài sản

2. Trường hợp theo thỏa thuận, bên bán giao tài sản cho bên mua thành nhiều lần mà bên bán thực hiện không đúng nghĩa vụ ở một lần nhất định thì bên mua có thể hủy bỏ nội dung hợp đồng liên quan đến lần vi phạm đó; nếu việc vi phạm này làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Điều 459. Phương thức giao tài sản

2. Trường hợp theo thỏa thuận, bên bán giao tài sản cho bên mua thành nhiều lần mà bên bán thực hiện không đúng nghĩa vụ ở một lần nhất định thì bên mua có thể hủy bỏ phần hợp đồng liên quan đến lần vi phạm đó; nếu việc vi phạm này làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có thể hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Việc hủy bỏ hợp đồng trong những trường hợp trên là thuyết phục. Tuy nhiên, nội hàm quy định không rõ và VIAC đề xuất làm rõ khi nào hủy bỏ “một phần” và khi nào hủy bỏ “toàn bộ” hợp đồng.

Không có

Điều. Chuyển giao hợp đồng

1. Một bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận với người thứ ba để người thứ ba thế vào vị trí của mình nếu được bên kia đồng ý.

2. Người thứ ba thế vào vị trí của bên chuyển giao kể từ thời điểm chuyển giao có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, pháp luật có quy định khác.

3. Bên được thay thế không bị ràng buộc bởi các quyền, nghĩa vụ dân sự phải thực hiện sau thời điểm chuyển giao hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Vấn đề chuyển giao hợp đồng rất phổ biến trong đời sống nhưng BLDS chỉ có quy định tản mạn về chuyển giao đương nhiên (như thay đổi chủ sở hữu tài sản đang cho thuê) và chưa có quy định về chuyển giao hợp đồng theo thỏa thuận. Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng có cả một mục riêng về chủ đề này. Nhân dịp sửa đổi BLDS, VIAC đề xuất luật hóa vấn đề này và nên bổ sung quy định như trên.

Điều 462. Trách nhiệm giao vật không đúng chủng loại

Trường hợp vật được giao không đúng chủng loại thì bên mua có một trong các quyền sau đây:

1. Nhận và thanh toán theo giá do các bên thoả thuận;

2. Yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại;

3. Trường hợp vật gồm nhiều chủng loại mà bên bán không giao đúng với thỏa thuận đối với một hoặc một số loại thì bên mua có thể hủy bỏ nội dung hợp đồng liên quan đến loại vật đó; nếu việc vi phạm này làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Điều 462. Trách nhiệm giao vật không đúng chủng loại

Trường hợp vật được giao không đúng chủng loại thì bên mua có một trong các quyền sau đây:

1. Nhận và thanh toán theo giá do các bên thoả thuận;

2. Yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại;

3. Trường hợp vật gồm nhiều chủng loại mà bên bán không giao đúng với thỏa thuận đối với một hoặc một số loại thì bên mua có thể hủy bỏ phần hợp đồng liên quan đến loại vật đó; nếu việc vi phạm này làm cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Việc hủy bỏ hợp đồng trong những trường hợp trên là thuyết phục. Tuy nhiên, nội hàm quy định không rõ và VIAC đề xuất làm rõ khi nào hủy bỏ “một phần” và khi nào hủy bỏ “toàn bộ” hợp đồng.

Điều 464. Thời điểm chuyển quyền sở hữu

1. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

2. Đối với tài sản mua bán mà luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm chuyển quyền sở hữu cho bên mua được áp dụng theo quy định tại Điều 182 của Bộ luật này.

3. Trường hợp tài sản mua bán chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên bán.

Điều 464. Thời điểm chuyển quyền sở hữu

1. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

2. Đối với tài sản mua bán mà luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm chuyển quyền sở hữu cho bên mua chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

3. Trường hợp tài sản mua bán chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên bán.

- Với quy định tại khoản 2 của Dự thảo, chúng ta thấy có sự mâu thuẫn với các luật chuyên ngành xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu không phụ thuộc vào thời điểm đăng ký (như Luật nhà ở). Thực chất, đăng ký chỉ để đối kháng với người thứ ba nhưng nội dung của Dự thảo lại không rõ về chủ đề này nên sẽ dẫn tới cách hiểu là điều chỉnh quan hệ giữa bên bán và bên mua (nên có xung đột giữa BLDS và luật chuyên ngành).

- Để dung hòa BLDS và luật chuyên ngành đồng thời để việc đăng ký có ý nghĩa, VIAC đề nghị nói rõ trong khoản 2 là có giá trị đối kháng từ thời điểm đăng ký.

Điều 528. Hợp đồng hợp tác

1. Hợp đồng hợp tác là hợp đồng, theo đó nhiều cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thỏa thuận về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

2. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực.

Điều 528. Hợp đồng hợp tác

1. Hợp đồng hợp tác là hợp đồng, theo đó nhiều cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thỏa thuận về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

2. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản.

- Khoản 2 điều luật trên yêu cầu hợp đồng hợp tác phải được công chứng, chứng thực. Ở đây, Dự thảo đã nhầm lẫn với hợp đồng thành lập tổ hợp tác với tư cách là một chủ thể trong BLDS hiện hành với hợp đồng hợp tác không tạo lập tổ hợp tác.

- Hợp đồng hợp tác không cần phải công chứng, chứng thực. Yêu cầu công chứng, chứng thực không có tính khả thi vì rất nhiều hợp đồng hợp tác chỉ được xác lập qua email hay fax. Vì vậy, VIAC đề xuất bỏ yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng hợp tác.

Điều 535. Gia nhập hợp đồng hợp tác

Một cá nhân là thành viên mới của hợp đồng hợp tác nếu được sự đồng ý của quá nửa tổng số thành viên hợp tác.

Điều 535. Gia nhập hợp đồng hợp tác

Một thành viên mới được gia nhập hợp đồng hợp tác nếu được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác.

Vì thành viên hợp đồng hợp tác luôn là cá nhân (quy định tại Điều 528) nên không cần cụm từ “cá nhân là”. VIAC cho rằng nên bổ sung thêm cụm từ “được gia nhập” cho rõ ý và phù hợp với tên của điều khoản. Ngoài ra, VIAC cho rằng nên sửa thuật ngữ “quá nửa” thành “hơn một nửa” cho thống nhất với các điều khoản khác trong Mục.

Điều 554. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ

2. Tường hợp bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thoả thuận thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Điều 554. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ

Trường hợp một bên của hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thoả thuận khiến cho bên kia không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng thì bên này có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

VIAC đề nghị sửa khoản 2 như nêu trên để đảm bảo sự công bằng cho cả hai bên của hợp đồng và để phân biệt với khoản 1 vì khoản 2 liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng do vi phạm hợp đồng. Việc bổ sung tiêu chí trên cũng phù hợp với phần quy định chung trong Dự thảo (hủy bỏ do có vi phạm nghiệm trọng).

Điều 447. Hình thức hợp đồng vận chuyển hành khách

1. Hợp đồng vận chuyển hành khách có thể được lập thành văn bản hoặc bằng lời nói.

2. Vé là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng vận chuyển hành khách giữa các bên.

-----------

Điều 455. Hình thức hợp đồng vận chuyển tài sản

1. Hợp đồng vận chuyển tài sản được giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản.

2. Vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương khác là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng giữa các bên.

Bỏ quy định này.

- VIAC nhận thấy không có lý do để loại bỏ việc giao kết hợp đồng chuyên chở “bằng hành vi cụ thể”, như trường hơp bằng cử chỉ, mà hợp đồng vận chuyển bằng taxi được xác lập và thực hiện. Thống nhất áp dụng nguyên tắc tự do về hình thức cho hợp đồng vận chuyển tài sản. Vì vậy không cần quy định khoản 1 nữa.

- Về khoản 2 của các điều luật trên, sự liệt kê này cũng không đầy đủ vì hợp đồng vận chuyển có thể chứng minh bằng các phương tiện khác như thông qua nhân chứng. Do đó, VIAC nhận thấy cũng nên bỏ cả khoản 2.

Điều 485. Tặng cho tài sản có điều kiện

1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Điều 485. Tặng cho tài sản có điều kiện

1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, đạo đức xã hội.

Cần sửa đổi từ “trái pháp luật” sang “vi phạm điều cấm của luật” để thống nhất với phần chung. Do đó, VIAC đề xuất thay “vi phạm điều cấm của luật” vào vị trí của “trái pháp luật”.

Điều 489. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

Điều 489. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở, nơi có địa điểm giao dịch của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.

- Ngoài trụ sở cũng có thể trả ở nơi có địa điểm giao dịch cho phù hợp với thực tế và tính kinh tế của quy định đối các giao dịch. Do đó, VIAC đề xuất thêm cụm từ “nơi có địa điểm giao dịch” vào khoản 3.

- Ngân hàng nhà nước hiện nay chỉ công bố có một lãi suất cơ bản để tham chiếu, không có đối với từng loại vay khác nhau. Vì vậy quy định tại khoản 4 phải sửa và VIAC đề xuất bỏ cụm từ “đối với loại vay tương ứng”.

Điều 491. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi suất luật định, nếu không có lãi suất luật định thì coi như hợp đồng vay không có lãi, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định ở khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

Điều 491. Lãi suất

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định.

2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm thanh toán.

3. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định ở khoản này thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố ở thời điểm cho vay.

- Khoản 2 của Dự thảo quá rườm rà và không bảo vệ tốt chủ nợ. Trong thực tiễn, khi không có thỏa thuận về lãi, Tòa án vẫn tính lãi theo lãi suất thấp nhất. VIAC đề xuất trong trường này áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố.

- Ngân hàng nhà nước hiện nay chỉ công bố có một lãi suất cơ bản để tham chiếu, không có đối với từng loại vay khác nhau. Vì vậy quy định tại khoản 3 phải sửa và VIAC đề xuất bỏ cụm từ “đối với loại vay tương ứng”.

- Dự thảo có sự tiến bộ so với BLDS là quy định rõ chế tài trong trường hợp vượt quá nhưng nội dung chế tài này không có tính răn đe và thúc đẩy người cho vay áp đặt lãi cao (vì khi phát hiện thì chỉ quay lại mức cho phép). Để hạn chế cho vay nặng lãi và để điều luật có ý nghĩa thì chế tài phải có tính răn đe. Do đó, VIAC đề xuất chế tài không là mức lãi suất vượt quá có giá trị mà là quay lại lãi suất thấp nhất (là lãi suất cơ bản).

Điều 500. Nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê

3. Trường hợp bên cho thuê đã được thông báo mà không sửa chữa hoặc sửa chữa không kịp thời thì bên thuê có quyền tự sửa chữa tài sản thuê, nhưng phải báo cho bên cho thuê và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí sửa chữa ngay sau khi việc sửa chữa hoàn thành. Trường hợp bên cho thuê có yêu cầu thì thời hạn hoàn trả chi phí sửa chữa cho bên thuê được thực hiện trong thời hạn hợp lý.

Điều 502. Nghĩa vụ bảo quản tài sản thuê

2. Bên thuê có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý ngay sau khi việc tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê hoàn thành. Trường hợp bên cho thuê có yêu cầu thì thời hạn hoàn trả chi phí cho bên thuê được thực hiện trong thời hạn hợp lý.

Điều 500. Nghĩa vụ bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê

3. Trong trường hợp bên cho thuê đã được thông báo mà không sửa chữa hoặc sửa chữa không kịp thời thì bên thuê có quyền tự sửa chữa tài sản thuê, nhưng phải báo cho bên cho thuê và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí sửa chữa.

Điều 502. Nghĩa vụ bảo quản tài sản thuê

2. Bên thuê có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý.

VIAC nhận thấy việc Dự thảo sửa đổi các quy định nêu trên là không thuyết phục trong khi đó các quy định hiện hành không cho thấy nhược điểm nào. Do đó, VIAC đề xuất giữ lại quy định trong BLDS về các nội dung nêu trên.

Điều 505. Trả lại tài sản thuê

2. Trường hợp tài sản thuê là động sản thì địa điểm trả lại tài sản thuê là nơi cư trú hoặc trụ sở của bên cho thuê, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Điều 505. Trả lại tài sản thuê

2. Trường hợp tài sản thuê là động sản thì địa điểm trả lại tài sản thuê là nơi cư trú hoặc trụ sở, địa điểm giao dịch của bên cho thuê, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

VIAC đề xuất bổ sung thêm địa điểm thực hiện việc hoàn trả tài sản thuê như đã đề nghị liên quan đến hoàn trả tiền vay nêu trên.

Điều 509. Giá thuê khoán

Quy định về giá trong hợp đồng thuê khoán được áp dụng cho giá thuê khoán, nếu thuê khoán thông qua đấu thầu thì giá thuê khoán là giá được xác định khi đấu thầu.

Điều 509. Giá thuê khoán

Giá thuê khoán do các bên thoả thuận; nếu thuê khoán thông qua đấu thầu thì giá thuê khoán là giá được xác định khi đấu thầu.

Hợp đồng là sự thỏa thuận, không có quy định. Quy định là văn bản pháp luật nên nội dung trên của Dự thảo không rõ nghĩa. VIAC đề xuất giữ lại quy định hiện hành.

Điều 510. Giao tài sản thuê khoán

Khi giao tài sản thuê khoán, các bên phải lập biên bản đánh giá tình trạng của tài sản thuê khoán và xác định giá trị tài sản thuê khoán.

Trường hợp các bên không xác định được giá trị thì mời người thứ ba xác định giá trị và phải lập thành văn bản.

Điều 510. Giao tài sản thuê khoán

Khi giao tài sản thuê khoán, các bên phải đánh giá tình trạng của tài sản thuê khoán và xác định giá trị tài sản thuê khoán.

Trường hợp các bên không xác định được giá trị thì mời người thứ ba xác định giá trị.

Dự thảo quá cứng nhắc khi buộc các bên phải lập biên bản và lập thành văn bản về giá trị tài sản. Quy định này không đúng với thực tế, rất nhiều trường hợp không lập biên bản do thân quen, khách hàng thường xuyên... Do đó, VIAC đề xuất bỏ quy định về yêu cầu lập biên bản và lập thành văn bản việc xác định giá.

Điều 519. Nghĩa vụ của bên mượn tài sản

1. Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn như tài sản của chính mình, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.

2...

Điều 519. Nghĩa vụ của bên mượn tài sản

1. Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.

2...

5. Bên mượn tài sản phải gánh chịu mọi rủi ro đối với tài sản mượn trong thời gian mượn.

- Quy định in đậm trong Dự thảo có vẻ rất thuyết phục khi đọc. Tuy nhiên, khái niệm này không định lượng được, nếu một người cẩu thả mượn mà bảo vệ cẩu thả như tài sản của họ thì quá bất lợi cho người cho mượn. Do đó, VIAC đề xuất bỏ quy định in đậm nêu trên.

- Trong quá trình tài sản cho mượn, có thể xảy ra rủi ro đối với tài sản nhưng Dự thảo chưa đề cập tới nội dung này. Do đó, VIAC bổ sung khoản 5 về chủ đề này theo hướng người mượn gánh chịu rủi ro.

Điều 587. Hình thức hợp đồng ủy quyền

1. Hình thức hợp đồng uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.

2. Trường hợp đại diện lại được thực hiện thì hình thức hợp đồng uỷ quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức hợp đồng uỷ quyền ban đầu.

Điều 587. Hình thức hợp đồng ủy quyền

1. Hình thức hợp đồng uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.

2. Trường hợp ủy quyền lại được thực hiện thì hình thức hợp đồng uỷ quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức hợp đồng uỷ quyền ban đầu.

- Khoản 1 đề cập tới hình thức của hợp đồng ủy quyền theo “pháp luật”. Tuy nhiên, để thống nhất với quy định chung là hình thức hợp đồng chỉ để “luật” quy định nên VIAC đề xuất bỏ từ “pháp” trong khoản 1.

- Khoản 2 sử dụng từ “đại diện” là không chuẩn vì điều luật này không nói về đại diện mà nói về ủy quyền. Do đó, để đúng hoàn cảnh, VIAC đề xuất thay từ “đại diện” bằng từ “ủy quyền” tại khoản 2.

Điều 593. Hứa thưởng

2. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội.

Điều 596. Thi có giải

1. Người tổ chức các cuộc thi văn hoá, nghệ thuật, thể thao, khoa học, kỹ thuật và các cuộc thi khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội phải công bố điều kiện dự thi, thang điểm, các giải thưởng và mức thưởng của mỗi giải.

Điều 593. Hứa thưởng

2. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Điều 596. Thi có giải

1. Người tổ chức các cuộc thi văn hoá, nghệ thuật, thể thao, khoa học, kỹ thuật và các cuộc thi khác không vi phạm điều cấm của luật, đạo đức xã hội phải công bố điều kiện dự thi, thang điểm, các giải thưởng và mức thưởng của mỗi giải.

Để thống nhất với phần chung, VIAC đề xuất thay phần in đậm trong Dự thảo bằng cụm từ “không vi phạm điều cấm của luật”.

Điều 691. Các trường hợp loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài

Pháp luật của nước ngoài được dẫn chiếu đến nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây thì pháp luật Việt Nam được áp dụng:

1. Hậu quả của việc áp dụng pháp luật của nước ngoài vi phạm trật tự công. Việc từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài phải dựa trên bản chất nội dung của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và không được chỉ dựa vào sự khác biệt của hệ thống pháp luật, chính trị, kinh tế của nước có liên quan với hệ thống pháp luật, chính trị, kinh tế của Việt Nam.

2. Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng;

3. Pháp luật của nước ngoài không điều chỉnh quan hệ dân sự đó.

Điều 691. Các trường hợp loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài

Pháp luật của nước ngoài được dẫn chiếu đến nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây thì pháp luật Việt Nam được áp dụng:

1. Hậu quả của việc áp dụng pháp luật của nước ngoài vi phạm trật tự công. Việc từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài phải dựa trên bản chất nội dung của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và không được chỉ dựa vào sự khác biệt của hệ thống pháp luật, chính trị, kinh tế của nước có liên quan với hệ thống pháp luật, chính trị, kinh tế của Việt Nam.

2. Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng;

3. Pháp luật của nước ngoài không điều chỉnh quan hệ dân sự đó.

4. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã có quy định bắt buộc áp dụng tại Việt Nam.

Trong tư pháp quốc tế hiện đại, hiện nay đã tồn tại một nhóm quy phạm mang tính bắt buộc (như quy định về quản lý ngoại hối ở Việt Nam) và quy định này loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài. Do đó, VIAC đề xuất bổ sung một căn cứ nữa để loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài (khoản 4).

Điều 708. Hành vi pháp lý đơn phương

Bên thực hiện hành vi pháp lý đơn phương được lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hành vi đó; trường hợp không lựa chọn thì áp dụng pháp luật của nước nơi cá nhân thường trú hoặc nước nơi pháp nhân đăng ký.

Điều 708. Hành vi pháp lý đơn phương

Bên thực hiện hành vi pháp lý đơn phương được lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hành vi đó; trường hợp không lựa chọn thì áp dụng pháp luật của nước nơi cá nhân thực hiện hành vi pháp lý đơn phương thường trú hoặc nước nơi pháp nhân thực hiện hành vi pháp lý đơn phương đăng ký.

VIAC đề xuất thêm cụm từ “thực hiện hành vi pháp lý đơn phương” sau từ cá nhân và pháp nhân để điều luật rõ nghĩa hơn.

Các văn bản liên quan