Ông Lê Anh Tuấn – Giới thiệu một số quy định mới của Dự thảo Luật Thi hành án dân sự

Thứ Tư 15:40 26-02-2014

GIỚI THIỆU NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG DỰ THẢO LUẬT

SỬA ĐỔI, BỔ SUNG  MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Lê Anh Tuấn

Phó Vụ trưởng Vụ Nghiệp vụ 1,

Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp

Ngày 18/6/2013 của Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 5 Nghị quyết ban hành Nghị quyết số 45/2013/QH13 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014. Sau đó, ngày 09/7/2013 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 616/NQ-UBTVQH13 triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự được đưa vào chính thức năm 2014 với tiến độ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014).

Ngày 16/8/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1441/QĐ-TTg phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình năm 2014 và các dự án luật, pháp lệnh đã có hoặc mới được bổ sung vào Chương trình khoá XIII của Quốc hội, trong đó giao cho Bộ Tư pháp chủ trì, phối  hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

Luật thi hành án dân sự và Nghị quyết thi hành Luật này được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện và chỉ đạo các cơ quan Tư pháp, Thi hành án dân sự địa phương triển khai nhiều biện pháp thực hiện Luật thi hành án dân sự. Đến nay, sau hơn bốn năm thực hiện cho thấy Luật thi hành án dân sự đã có nhiều tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, thể hiện ở những điểm cơ bản như:

Thứ nhất, Luật thi hành án dân sự đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn và có nhiều quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự rõ ràng, dễ thực hiện hơn. Kết quả thi hành án dân sự về việc và tiền đạt tỷ lệ cao và cơ bản được giữ vững, mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn; cụ thể: Năm 2010, tỷ lệ việc thi hành xong trong số việc có điều kiện thi hành là 86,35%, tỷ lệ tiền thu được trong số tiền có điều kiện thi hành là 80,1%. Năm 2011, tỷ lệ việc thi hành xong trong số việc có điều kiện thi hành là 88%, tỷ lệ tiền thu được trong số tiền có điều kiện thi hành là 76,1%. Năm 2012, tỷ lệ việc thi hành xong trong số việc có điều kiện thi hành là 88,58%, tỷ lệ tiền thu được trong số tiền có điều kiện thi hành là 76,98%. Năm 2013, tỷ lệ việc thi hành xong trong số việc có điều kiện thi hành là 86,53%, tỷ lệ tiền thu được trong số tiền có điều kiện thi hành là 73,17%. Công tác phân loại án đã có sự chuyển biến tích cực, đạt được sự chính xác cao hơn so với trước đây.

Thứ hai, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được kiện toàn một bước so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, các cơ quan thi hành án dân sự là hệ thống dọc trực thuộc Bộ Tư pháp đã khẳng định được sự phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự, vị thế cơ quan thi hành án dân sự ngày càng được nâng lên; hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự đã khẳng định được tính độc lập, ổn định và hiệu quả của thi hành án dân sự ngày càng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến cấp huyện; phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự, bảo đảm cơ chế vận hành có hiệu quả, thông suốt, gắn chặt với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương; nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân, tổ chức. Việc cơ quan thi hành án dân sự được nâng lên ngang hàng với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, trực tiếp báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp nên đã nhận được sự quan tâm, giám sát của Hội đồng nhân dân và Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, chính quyền địa phương.

 Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, Luật thi hành án dân sự đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:

Một là, hoạt động thi hành án dân sự chưa được thống nhất xác định là hoạt động tư pháp, công đoạn cuối cùng của tố tụng theo như kết luận của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, vì vậy, còn chưa thực sự tạo ra sự gắn kết giữa hoạt động xét xử và thi hành án dân sự, Tòa án chưa chịu trách nhiệm đến cùng trong việc thi hành các bản án, quyết định của mình; vẫn còn tình trạng án tuyên không rõ nhưng Tòa án chưa kịp thời giải thích, ảnh hưởng đến tiến độ thi hành án dân sự. Nhiều bản án, quyết định đã được thi hành nhưng lại bị xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự. Mặt khác, chưa tăng cường được vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc theo dõi, thống kê các bản án, quyết định đã được Tòa án ra quyết định đưa ra thi hành án. Đồng thời, còn có sự chưa rõ ràng về thẩm quyền kiểm sát và thanh tra đối với quá trình tổ chức việc thi hành án dân sự. 

Hai là, Luật thi hành án dân sự quy định người được thi hành án tự tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là không phù hợp với thực tế hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta, do vậy đã không phát huy được hiệu quả trên thực tế, gây trở ngại khó khăn cho người được thi hành án nói riêng, công tác thi hành án dân sự nói chung.

Ba là, Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết, hạn chế như: trình tự, thủ tục thi hành án còn phức tạp, kéo dài, nhiều công đoạn; chưa tạo điều kiện để đương sự chủ động tham gia tích cực vào trong quá trình thi hành án; thiếu thống nhất với pháp luật có liên quan; chưa có quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành án mà chủ yếu là các quy định bảo vệ quyền lợi đối với người phải thi hành án, dẫn tới việc chấp hành pháp luật của người phải thi hành án chưa nghiêm, cố tình chây ỳ, kéo dài thi hành án và không tự nguyện thi hành án; mặt khác, việc áp dụng các biện pháp chế tài về hành chính, kinh tế và hình sự đối với người phải thi hành án không được quyết liệt, kịp thời nên chưa có đủ sức mạnh để răn đe.

Bốn là, về thực tiễn, kết quả thi hành án: lượng án tồn đọng tuy có giảm qua các năm nhưng vẫn còn tồn đọng lượng việc rất lớn (gần 200 nghìn việc). Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau (hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa pháp lý, ý thức chấp hành pháp luật, quy định của pháp luật nội dung, quy định của pháp luật về thi hành án dân sự,...). Đối với nguyên nhân xuất phát từ quy định của Luật thi hành án dân sự, có thể nhận thấy trên các khía cạnh sau: công tác phối hợp và trách nhiệm của Tòa án chưa thực sự hiệu quả; Viện kiểm sát mới chỉ kiểm sát công tác thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành án dân sự mà chưa kiểm sát việc thi hành án dân sự của người phải, người được thi hành án (đặc biệt là các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước); quy định điều kiện để được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án chưa phù hợp.

Năm là, chưa quy định rõ sự phối, kết hợp giữa quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ đối với công tác thi hành án dân sự; sự quản lý và trách nhiệm phối hợp của chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan trong thi hành án chưa hiệu quả .

Sáu là, về nhiệm vụ và định hướng phát triển của hoạt động thi hành án dân sự: cần phải tiếp tục thể chế hóa chính sách xã hội hóa thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể bằng việc thí điểm chế định thừa phát lại.

Từ các vấn đề nêu trên, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự để giải quyết những hạn chế, tồn tại và đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.

II. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO

1. Sau khi nhận được Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội, Nghị quyết số 616/NQ-UBTVQH13 ngày 09/7/2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan: Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Tòa  án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ban soạn thảo đã tiến hành các hoạt động cần thiết phục vụ xây dựng dự án Luật, như: tổ chức khảo sát về thực tiễn thi hành, thực hiện Luật thi hành án dân sự; tổ chức tổng kết 04 năm thực hiện, thi hành Luật thi hành án dân sự; rà soát các quy định của pháp luật hiện hành; đánh giá tác động của Dự thảo Luật; đánh giá tác động thủ tục hành chính; tổ chức một số hội thảo, tọa đàm khoa học với sự tham gia đông đảo của các ngành, các cấp, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, các Chấp hành viên và các nhà khoa học pháp lý để cho ý kiến về dự thảo Luật.

2. Dự thảo Luật đã được tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành ở Trung ương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và  Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh; đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp để lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân có quan tâm.

3. Ngày 17/02/2014, Dự án Luật đã được Hội đồng thẩm định tiến hành thẩm định. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định, chỉnh lý Dự án Luật.

III. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1. Mục đích

Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự nhằm bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm chỉnh thi hành; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự; giảm cơ bản vụ việc tồn đọng; bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, hạn chế sự chây ỳ, kéo dài của người phải thi hành án; xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động thi hành án dân sự. Đồng thời, phân định rõ thẩm quyền của Viện kiểm sát đối với hoạt động tư pháp trong thi hành án dân sự và thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra chuyên ngành đối với thanh tra, kiểm tra việc sử dụng ngân sách, bảo đảm chế độ chính sách và bố trí sử dụng cán bộ tại cơ quan thi hành án dân sự. Tạo cơ sở pháp lý cho việc tham gia hoạt động thi hành án dân sự của các tổ chức khác được pháp luật cho phép.

2. Quan điểm

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và bảo đảm đồng bộ giữa công tác quản lý thi hành án với cải cách lập pháp cải cách hành chính, cải cách hoạt động tư pháp khác theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; kết luận của Bộ Chính trị về việc thực hiện quản lý công tác thi hành án; bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc phân công thực hiện các quyền của bộ máy nhà nước, trong đó Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các đạo luật khác có liên quan.

Thứ hai, Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung bảo đảm sự gắn kết giữa hoạt động xét xử và thi hành án dân sự, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Toà án, Viện kiểm sát và Ủy ban nhân dân các cấp trong hoạt động thi hành án dân sự để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành có hiệu quả, thực chất, bền vững;

Thứ ba, tiếp tục kế thừa, phát huy hiệu quả những quy định hợp lý của Luật thi hành án dân sự và khắc phục những khó khăn, vướng mắc về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự; tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong công tác thi hành án, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm tính khả thi cao khi Luật được ban hành, áp dụng thuận lợi trong thực tế.

Thứ tư, chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề cấp bách, đã được nghiên cứu rõ về lý luận, được kiểm nghiệm phù hợp với thực tiễn; chưa xem xét sửa đổi, bổ sung những vấn đề còn có các quan điểm khác nhau, chưa được nghiên cứu thấu đáo.

IV. PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀ NHỮNG NỘI DUNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1. Phạm vi sửa đổi, bổ sung

Căn cứ vào các quan điểm chỉ đạo nêu trên, Dự thảo Luật dự kiến sửa đổi, bổ sung 85 điều, gồm: sửa đổi, bổ sung 74 điều, khoản; bổ sung mới 10 điều, khoản; bãi bỏ 01 điều, khoản.

2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản

2.1. Bổ sung phạm vi các bản án, quyết định được thi hành; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; chủ trương khuyến khích xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự (Chương I).

- Bổ sung quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với mục đích để họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình thi hành án và là căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự thực hiện pháp luật về thi hành án;

- Việc bổ sung quy định về chủ trương khuyến khích xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự theo hướng: Tăng cường quyền, nghĩa vụ cho người được thi hành án; đề cao trách nhiệm của người phải thi hành án; đồng thời, giảm bớt các trình tự, thủ tục thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự.

2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về Chấp hành viên (Chương II)

Sửa đổi, bổ sung quy định điều kiện bổ nhiệm Chấp hành viên theo hướng mở rộng diện bổ nhiệm Chấp hành viên, theo đó, những người đã là Chấp hành viên sau đó được điều động, luân chuyển, biệt phái ở các đơn vị khác thì có thể bổ nhiệm lại làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển hoặc những người trong, ngoài hệ thống tổ chức thi hành án có đủ điều kiện quy định của Luật thì được bổ nhiệm Chấp hành viên ở ngạch tương đương.

2.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục thi hành án dân sự (Chương III)

- Bổ sung quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành; tiền chậm thi hành án để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án và góp phần hạn chế tình trạng người phải thi hành án trây ỳ, kéo dài việc thi hành án.

- Bổ sung một số quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được thi hành án liên quan đến tài sản của nhà nước.

- Bổ sung quy định đối với cá nhân, tổ chức không thực hiện các yêu cầu của Chấp hành viên như: không cung cấp thông tin về tài sản; không chấp hành quyết định của Chấp hành viên; không hợp tác với cơ quan thi hành án trong xác minh, cưỡng chế thi hành án, ...

- Bổ sung quy định các trường hợp được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, cụ thể những trường hợp nào được xét miễn, trường hợp nào được xét giảm, các điều kiện và mức miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án để bảo đảm tính khả thi, dễ triển khai thực hiện.

2.4. Sửa đổi, bổ sung các quy định biện pháp đảm bảo và cưỡng chế thi hành án dân sự (Chương IV)

- Bổ sung quy định cụ thể đương sự có quyền thoả thuận thi hành án, trong đó, người được thi hành án được nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, Chấp hành viên lập biên bản về việc thoả thuận và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự làm căn cứ chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản.

- Sửa đổi, bổ sung biện pháp bảo đảm phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; thời hạn phong tỏa tài khoản từ 05 ngày làm việc thành 15 ngày và thời hạn tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự từ 15 ngày thành 30 ngày; thời hạn tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản từ 15 ngày thành 45 ngày, trong trường hợp đặc biệt là 60 ngày để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc xác minh, làm rõ thông tin về tài sản.

- Bổ sung trường hợp cưỡng chế thi hành án nhưng không phải huy động lực lượng tham gia cưỡng chế thì Chấp hành viên chỉ ra thông báo cưỡng chế thi hành án để giảm bớt các chi phí cưỡng chế, thủ tục cưỡng chế và các thủ tục hành chính khác.

- Bổ sung quy định cụ thể đối với đương sự được quyền yêu cầu định giá lại tài sản kê biên, với mục đích bảo đảm tài sản kê biên được đưa ra bán đấu giá đúng giá trị, không làm thiệt hại đến các bên đương sự, giảm bớt tình trạng khiếu nại, tố cáo.

- Bổ sung quy định cưỡng chế kê biên đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho chủ sở hữu chung biết họ được quyền ưu tiên mua tài sản chung đã kê biên theo giá khởi điểm bán đấu giá tài sản kê biên. Thời hạn ưu tiên mua tài sản chung đã kê biên là 01 tháng đối với tài sản là động sản và 03 tháng đối với tài sản là bất động sản, kể từ ngày Chấp hành viên thông báo giá khởi điểm tài sản kê biên. Hết thời hạn nêu trên, nếu chủ sở hữu chung không mua tài sản kê biên thuộc sở hữu chung thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

- Bổ sung quy định phân chia, xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án; giải quyết tranh chấp tài sản đã kê biên và yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án; theo đó các đương sự, Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án phân chia, xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án khi có căn cứ xác định giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

- Bổ sung quy định xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp, theo đó, trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì Chấp hành viên vẫn tiến hành cưỡng chế và thông báo cho đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì Chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án. Trong trường hợp này, Chấp hành viên không phải chịu trách nhiệm về việc đưa tài sản ra xử lý để thi hành án. Trường hợp đương sự đã có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền nhưng không được thụ lý hoặc xem xét giải quyết thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.

- Bổ sung đối với việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án được xây dựng trên đất của người khác hoặc trên đất của người phải thi hành án có tài sản của người khác thì tạo điều kiện cho người có đất gắn với tài sản của người phải thi hành án hoặc người có tài sản gắn với đất của người phải thi hành án được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc mua tài sản của người phải thi hành án theo giá khởi điểm nếu không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba. Nếu các bên không thể thỏa thuận mua lại, cơ quan thi hành án dân sự hướng dẫn khởi kiện ra Tòa án để phân chia tài sản trong thời hạn 30 ngày. Nếu đương sự không khởi kiện hoặc không được Tòa án thụ lý giải quyết thì cơ quan thi hành án tiến hành xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.

- Bổ sung quy định về việc xử lý đối với tài sản thi hành án không có người tham gia đấu giá, trả giá và quy định cụ thể nếu sau 02 lần giảm giá mà không có người tham gia đấu giá, trả giá thì Chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận sản kê biên để trừ vào số tiền được thi hành án mà không cần có sự đồng ý của người phải thi hành án; nếu người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền thi hành án thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án và trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Luật thi hành án dân sự. Tuy nhiên, đối với việc xử lý tài sản để thi hành cho các khoản nộp ngân sách nhà nước thì Chấp hành viên xử lý đến cùng cho đến khi bán đấu giá thành tài sản.

2.5. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thi hành án trong một số trường hợp cụ thể (Chương V)

Quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án trong việc khắc phục hậu quả các bản án, quyết định đã được thi hành xong hoặc thi hành được một phần nhưng quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm làm thay đổi các nội dung đã quyết định trước đó.

2.6. Sửa đổi, bổ sung quy định khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự (Chương VI)

Quy định cụ thể quyền khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi của Tòa án; thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án và các quyền khiếu nại, tố cáo đối với quyết định thi hành án của Tòa án; sửa đổi theo hướng tăng thời hạn giải quyết khiếu nại tố cáo để phù hợp với quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo.

2.7. Sửa đổi, bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự (Chương VIII)

- Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát đối với hoạt động thi hành án dân sự. Trong đó, kiểm sát trách nhiệm của Tòa án trong việc ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành; chuyển giao bản án, chuyển giao các tài liệu, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án; trả lời kiến nghị, kháng nghị, giải thích bản án khi có yêu cầu, trả lời các khiếu nại của cá nhân, tổ chức liên quan đến việc thi hành án...; đồng thời, chịu trách nhiệm về hoạt động kiểm sát của mình.

- Phân định rõ thẩm quyền của cơ quan kiểm sát và thẩm quyền của cơ quan thanh tra đối với công tác thi hành án dân sự.

- Quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành; chuyển giao quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành, kèm theo bản án, quyết định, các tài liệu, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án; trả lời kiến nghị, giải thích bản án khi có yêu cầu, trả lời các khiếu nại của đương sự và chịu trách nhiệm đối với hoạt động này.

- Quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án khi chủ sở hữu chung khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu xác định phần tài sản thuộc sở hữu chung của mình với người phải thi hành án hoặc Chấp hành viên, người được thi hành án yêu cầu Tòa án xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.

- Bổ sung quy định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh, cấp huyện chỉ đạo các cơ quan ban, ngành tại địa phương phối hợp trong công tác thi hành án dân sự; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự; hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan thi hành án dân sự.

Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của UBND cấp xã (chính quyền cơ sở) trong việc phối hợp, hỗ trợ cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình thi hành án dân sự.

Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của UBND các cấp không can thiệp, làm ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan thi hành án dân sự, bảo đảm tính độc lập đặc thù về hoạt động tư pháp của các cơ quan thi hành án dân sự.

2.8.  Sửa đổi, bổ sung quy định yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án dân sự (Chương IX)

Quy định cụ thể hơn về yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án dân sự; trong đó, quy định cụ thể về quyền yêu cầu tương trợ tư pháp, thẩm quyền yêu cầu và thực hiện tương trợ tư pháp nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến việc giao giấy tờ, tài liệu và tài sản của đương sự theo các quy định của điều ước quốc tế.

V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

Trong quá trình soạn thảo, lấy ý kiến về Dự án Luật, các ý kiến đều nhất trí về sự cần thiết ban hành và những nội dung cơ bản của Dự án Luật. Tuy nhiên, cũng còn có ý kiến khác nhau về một số vấn đầ sau đây:

1.     Phạm vi sửa đổi và tên gọi của Dự án Luật

Có 02 loại ý kiến khác nhau về phạm vi sửa đổi và tên gọi của dự án, cụ thể:

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, cần giữ nguyên tên gọi và tiến độ trình Dự án Luật.

Theo Nghị quyết số 45/2013/QH13 của Quốc hội thì chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều nên chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề cấp thiết chủ yếu về trình tự, thủ tục thi hành án nhằm đảm bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định, giảm thiểu án dân sự tồn đọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả về thi hành án. Vì vậy, Tòa án chỉ ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành, còn các quyết định khác do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Loại ý kiến này đề nghị giữ nguyên tên gọi và tiến độ trình Dự án Luật.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần mở rộng phạm vi, lùi thời hạn và đổi tên gọi.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự phải xuất phát từ thực trạng vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn thi hành án dân sự; sửa đổi để phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật khác đang được nghiên cứu, sửa đổi. Chính vì vậy, để giải quyết bất cập, vướng mắc của thực tiễn thi hành án dân sự thì cần phải sửa đổi một cách toàn diện Luật thi hành án dân sự hiện hành, cụ thể cần có các quy định nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong thi hành án dân sự; quy định rõ hơn trách nhiệm của UBND trong việc phối hợp thi hành án dân sự, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát thi hành án... bảo đảm Luật thi hành án dân sự được sửa đổi sẽ thực sự đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả về thi hành án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân trong hoạt động thi hành án dân sự. Theo đó, đề nghị đổi tên gọi của Dự án Luật này thành Luật thi hành án dân sự (sửa đổi).

Tổ biên tập thấy rằng, trong bối cảnh hiện nay, các đạo luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến hệ thống tổ chức như: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật hôn nhân và gia đình...  đang trong quá trình sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, Luật tổ chức Tòa án nhân dân dự kiến sẽ được Tòa án nhân dân tối cao đề nghị lùi 01 kỳ họp Quốc hội (thông qua vào tháng 6 năm 2015), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) chưa được ban hành do còn chờ Luật tổ chức Tòa án nhân dân, vì vậy Luật thi hành án dân sự không thể tách rời tiến độ xây dựng các dự án Luật nêu trên và không đi trước quá sớm để giải quyết một vấn đề riêng biệt; trong đó: Hiện nay, hệ thống Tòa án được tổ chức theo 3 cấp: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện, nhưng theo Dự thảo 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì hệ thống Tòa án ở nước ta sẽ gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án sơ thẩm khu vực. Quy định như trên sẽ đặt ra vấn đề là Tòa án nào ra quyết định thi hành án và các quyết định liên quan; các quyết định đó sẽ thực hiện theo quy định kháng cáo hay khiếu nại và Tòa án nào sẽ có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy, chỉ nên sửa đổi những gì đã rõ, đã có ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, đồng thời phù hợp với các đạo luật khác đang có hiệu lực pháp luật.

Từ thực trạng nêu trên, Tổ biên tập đồng tình với loại ý kiến thứ nhất.

2. Vai trò, trách nhiệm của Tòa án

Thực tiễn tổ chức hoạt động thi hành án dân sự cho thấy còn có sự xác định chưa đúng bản chất của thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp; Toà án chưa có trách nhiệm đến cùng với bản án, quyết định mà mình đã ban hành; đã xảy ra tình trạng cắt khúc, tách rời các giai đoạn tố tụng làm hạn chế mối quan hệ giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án dân sự, giữa Toà án với cơ quan thi hành án dân sự.

Do sự cắt khúc giữa hai giai đoạn xét xử và thi hành án, nên sau khi ban hành bản án, quyết định, gần như Tòa án không theo dõi kết quả thi hành bản án, quyết định trên thực tế; một số bản án, quyết định được ban hành chậm được chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự; nội dung chưa đảm bảo khả thi, rõ ràng, dẫn đến các cách hiểu khác nhau; khi cơ quan thi hành án dân sự đề nghị giải thích thì không nhận được hoặc chậm nhận được trả lời; một số trường hợp giải thích chưa rõ để thi hành; trường hợp kiến nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không nhận được trả lời; khi xét xử lại đã không xử lý toàn diện kết quả thi hành án trước đó. Vì vậy, lần sửa đổi này, Ban soạn thảo đã chỉ đạo nghiên cứu cơ chế gắn kết chặt chẽ hơn nữa vai trò trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động thi hành án dân sự, cơ chế đó được xác định là giao cho Tòa án ra quyết định về thi hành án dân sự. Việc quy định Tòa án ra quyết định về thi hành án dân sự cũng phù hợp với định hướng cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian tới, đó là: Quyết định về thi hành án của Tòa án là quyết định của quyền tư pháp, đưa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào giai đoạn thi hành, còn các quyết định của cơ quan thi hành án dân sự là quyết định về nghiệp vụ trong việc tổ chức thi hành án.

Hiện nay, có 02 loại ý kiến về cơ chế Tòa án ra quyết định về thi hành án dân sự, cụ thể:

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, giao cho Tòa án chỉ ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành, còn các quyết định khác về thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện; Tòa án ra quyết định miễn, giảm thi hành án; đình chỉ thi hành án trong trường hợp đã kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm như hiện nay.

Loại ý kiến này, phù hợp với quan điểm lần này chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Toà án ra các quyết định liên quan trực tiếp đến khởi động việc thi hành án, làm dừng và thay đổi nội dung bản án, quyết định của Toà án (như thi hành án hình sự) thì Tòa án phải ra 12 loại, với 17 quyết định về thi hành án dân sự (quyết định thi hành án, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, ủy thác, trả đơn yêu cầu thi hành án...). Cơ quan thi hành án dân sự ra các quyết định về thi hành án liên quan trực tiếp đến thủ tục tổ chức thi hành quyết định thi hành án, trong đó, cơ quan thi hành án dân sự ra 37 loại, với 40 quyết định về thi hành án như: Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế v.v...

Về vấn đề này, Tổ biên tập thấy rằng, hai loại ý kiến nêu trên sẽ bảo đảm được sự gắn kết giữa giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án; tăng cường được mối quan hệ giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án, giữa Tòa án với cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc xét xử cũng như việc theo dõi, kiểm soát, thống kê các bản án, quyết định đã được Tòa án ra quyết định thi hành; tạo cơ chế để bảo đảm bản án, quyết định được ban hành có tính khả thi cao hơn; kịp thời khắc phục được những sai sót trong các bản án, quyết định đã tuyên như giải thích, đính chính, kháng nghị và trả lời khiếu nại (nếu có); nâng cao trách nhiệm của Tòa án đối với kết quả thi hành bản án, quyết định của mình.

Tuy nhiên, nếu theo loại ý kiến thứ hai sẽ làm phát sinh thêm các thủ tục mới liên quan đến Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án; phát sinh thêm bộ máy và nhân sự của Tòa án; đồng thời, tăng thêm các thủ tục hành chính, kéo dài quá trình thi hành án (thủ tục và thời gian sẽ tăng gấp đôi so với quy định hiện hành vì phát sinh quy trình từ Tòa án sang cơ quan thi hành án dân sự và ngược lại).

Từ đó cho thấy, nếu thể hiện vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong thi hành án dân sự như loại ý kiến thứ hai thì đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật thi hành án dân sự trong mối quan hệ đồng bộ với sửa đổi các luật về tổ chức Tòa án nhân dân, tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các luật về tổ chức bộ máy khác, cũng như sửa đổi các đạo luật tố tụng (dân sự, hình sự, hành chính...).

Từ sự phân tích trên, Tổ biên tập nhất trí với loại ý kiến thứ nhất (điều này cũng phù hợp với ý kiến kết luận của Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tại phiên họp thứ 11).

3. Về trách nhiệm xác minh của người được thi hành án

Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh. Đây là quy định mới so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, nhằm nâng cao hơn sự chủ động và tăng trách nhiệm của người được thi hành án tham gia vào quá trình thi hành án, giảm gánh nặng về nhân lực và kinh phí cho cơ quan thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, với truyền thống văn hóa pháp lý, ý thức chấp hành pháp luật, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, thì quy định như trên đã không phát huy được hiệu quả trên thực tế, người được thi hành án rất khó khăn trong việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nhất là việc xác minh tại các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng... Vì vậy, trách nhiệm xác minh là trở ngại lớn của người được thi hành án trong quá trình bảo vệ các quyền, lợi ích của mình theo phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền.

Dự thảo hiện nay sửa đổi quy định nêu trên theo hướng người được thi hành án có quyền cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có, mà không bắt buộc phải xác minh. Sau khi ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh.

Trên đây là những nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, xin giới thiệu với các Đại biểu tham dự Hội thảo./.

Các văn bản liên quan