Công văn góp ý của VCCI đối với Dự thảo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi)

Thứ Ba 14:41 20-08-2013

Kính gửi: Bộ Tài nguyên và Môi trường

Ngày 24/4/2013, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với Quý Cơ quan tổ chức “Hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện dự thảo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi)” tại Hà Nội. Tại hội thảo, nhiều doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và chuyên gia đã có đã góp ý nhiều ý kiến về Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) này.

Là thành viên Ban soạn thảo, tổ biên tập của dự án Luật, VCCI trân trọng gửi tới Quý Cơ quan tổng hợp ý kiến của các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia và các ý kiến tiếp theo (đối với dự thảo họp ngày 25 và 26/6/2013) như sau:

I.               Quan điểm tiếp cận

Việc soạn thảo và ban hành Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo) là cần thiết nhằm khắc phục những bất cập của các quy định hiện tại, bổ sung nhiều quy định mới để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng cao hơn các yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong thời gian tới.

Để đạt được những mục tiêu trên, các quy định tại Dự thảo cần đáp ứng các yêu cầu như:

-        Minh bạch: các quy định cần rõ ràng, tạo cách hiểu thống nhất giữa các đối tượng áp dụng, đảm bảo cho hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước và sự tuân thủ của các tổ chức, cá nhân góp phần bảo vệ môi trường Việt Nam

-        Hợp lý: các quy định phải dựa trên căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững, các quy định phải giải quyết được thích đáng những vấn đề môi trường phát sinh

-        Khả thi: các quy định phải cụ thể để dễ áp dụng trên thực tế

Là tổ chức quốc gia đại diện cộng đồng doanh nghiệp, VCCI bước đầu đóng góp ý kiến tập trung hơn vào những quy định liên quan tới nghĩa vụ của doanh nghiệp và sẽ tiếp tục tham gia ý kiến để hoàn thiện Luật này.

Các doanh nghiệp nhận thức được rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình có thể gây ra các tác động tiêu cực đến môi trường, nhưng đồng thời các doanh nghiệp cũng là nhân tố đóng góp tích cực vào công tác bảo vệ môi trường. Trong quá trình sửa đổi Luật bảo vệ môi trường (BVMT) 2005, hầu hết các doanh nghiệp đồng thuận với việc Nhà nước đưa ra các quy định chặt chẽ nhằm mục tiêu BVMT. Nhìn chung, các doanh nghiệp sẵn sàng bỏ chi phí, thời gian và các nguồn lực khác để thực hiện các hoạt động BVMT, bởi công tác này có thể gây tốn kém trước mắt nhưng chắc chắn sẽ mang lại lợi ích về lâu dài, không chỉ đối với doanh nghiệp nói riêng mà còn với sự phát triển bền vững của đất nước.

Công khai và minh bạch là một yêu cầu tất yếu trong các quy định pháp luật, điều đó cũng có nghĩa là những nghĩa vụ của doanh nghiệp (tương ứng với nguồn lực bỏ ra về tài chính, thời gian, công sức…) phải thực sự đóng góp cho lợi ích chung và phải được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, điều này không những góp phần BVMT mà còn giúp doanh nghiệp chủ động lập kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

II.            Nhận xét chung

Ban soạn thảo đã có rất nhiều nỗ lực và cầu thị trong việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý từ các chuyên gia, nhà khoa học từ các cuộc hội thảo và văn bản góp ý trước đó. Các vấn đề trong Dự thảo được trình bày khá mạch lạc, nhiều vẫn đề chưa rõ ràng trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã được giải quyết. Trách nhiệm BVMT của doanh nghiệp được quy định chặt chẽ hơn, bên cạnh đó, Dự thảo mở ra cơ hội và tạo điều kiện cho nhiều hoạt động kinh doanh mới trong lĩnh vực môi trường. Dự thảo cũng quy định rõ ràng hơn về vấn đề thanh tra, giảm phiền phức và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện Luật một cách thuận lợi.

Nhiều nội dung mới được đưa vào Dự thảo hứa hẹn sẽ có tác dụng tốt trong công tác BVMT, rất nhiều vấn đề lợi ích đan xen nhau cũng đã được Ban Soạn thảo cân đối và đưa ra phương án phù hợp, thỏa mãn nhu cầu của các bên. Ví dụ, việc bỏ cam kết bảo vệ môi trường và thay bằng kế hoạch bảo vệ môi trường là một giải pháp hay, nhận được sự tán thành của cả các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề mới được đưa vào Dự thảo như Quy hoạch môi trường, Kế hoạch bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu… cần quy định đầy đủ, rõ ràng hơn để quy định có tính khả thi cao trên thực tế.

Bên cạnh đó, cần xem xét đưa ra dự thảo các văn bản hướng dẫn cùng với Dự thảo để các đối tượng tham gia ý kiến nhìn nhận vấn đề một cách tổng quát hơn, đồng thời tiết kiệm thời gian góp ý, đảm bảo văn bản hướng dẫn và Luật có hiệu lực thi hành cùng một thời điểm, thuận tiện trong áp dụng.

III.         Một số góp ý cụ thể

1.    Giải thích thuật ngữ (Điều 3)

-        Khoản 1: nên bỏ từ “vật chất” khỏi cụm từ “vật chất nhân tạo”, vì vật chất nhân tạo mang nhiều hàm ý về sản phẩm chứ không phải là thành tố của môi trường. Khoản này cần sửa lại là “môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và nhân tạo…”.

-        Khoản 9: Cần định nghĩa rõ hơn về sự cố môi trường (ví dụ như xác định như thế nào là suy thoái, biến đổi môi trường nghiêm trọng) để phân biệt với một số loại sự cố khác (ví dụ như sự cố hóa chất theo quy định của Luật hóa chất…), từ đó có trình tự xử lý phù hợp.

-        Khoản 24: định nghĩa về thông tin môi trường khác với định nghĩa tại Điều 124. Khoản 24 này định nghĩa về hình thức còn Điều 124 định nghĩa về cả nội dung và hình thức nhưng không giống nhau, đề nghị Ban soạn thảo chỉnh sửa cho thống nhất và chỉ nên quy định tại một Điều, không nhắc lại.

-        Đề nghị bổ sung giải thích thuật ngữ xuất khẩu, nhập khẩu theo nội hàm của Luật này. Luật BVMT không đưa ra khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, do đó, phải áp dụng khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu trong các lĩnh vực pháp luật khác. Khoản 2 Điều 28 của Luật thương mại 2005 xác định: "Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật". Các quy định của Luật hải quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy đinh “khu vực hải quan riêng bao gồm khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại - công nghiệp và khu vực kinh tế khác được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu”. Khi các doanh nghiệp trong khu vực này không có nhu cầu sử dụng phế liệu hoặc các doanh nghiệp trong các khu vực này phát sinh chất thải mà không có hệ thống xử lý chất thải thì chất thải và phế liệu có thể được đưa ra ngoài khu vực này để tái chế, tái sử dụng và xử lý. Dưới giác độ của pháp luật thương mại, hoạt động này là hoạt động nhập khẩu chất thải, phế liệu vào Việt Nam, hoạt động nhập khẩu này có đặc thù là chất thải, phế liệu được sản sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam nhưng trong một khu vực có quy chế riêng về kinh tế. Trong trường hợp không có quy định riêng, hành vi vận chuyển chất thải không có trong danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ các khu vực kinh tế đặc biệt ra ngoài khu vực này là hành vi vi phạm pháp luật (khoản 9 Điều 7 Luật BVMT cấm nhập khẩu chất thải dưới mọi hình thức), nhưng nếu không vận chuyển ra ngoài khu vực này để tái chế hoặc xử lý thì các chất thải, các phế liệu này sẽ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường Việt Nam, không bảo đảm phát triển bền vững. Do đó Luật BVMT cần quy định khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu theo cách hiểu của pháp luật môi trường theo hướng: hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu chỉ bao hàm hoạt động đưa hàng hoá vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc đưa hàng hoá ra khỏi lãnh thổ Việt Nam tức là trong pháp luật BVMT thì xuất, nhập khẩu nên được hiểu là khi hàng hóa đi qua biên giới lãnh thổ. Ngoài ra cần cân nhắc bổ sung những quy định riêng đối với hoạt động nhập khẩu chất thải và phế liệu từ các khu vực có quy chế kinh tế đặc biệt nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường và bảo đảm tính phù hợp với đặc thù của hoạt động động này. Nên quy định theo hướng áp dụng các quy định vận chuyển chất thải và phế liệu sản sinh ở trong nước đối với các hoạt động đưa chất thải và phế liệu từ các khu vực có quy chế đặc biệt về kinh tế ra ngoài khu vực này.

-        Đề nghị bổ sung định nghĩa về “sản phẩm thân thiện với môi trường” (phân tích cụ thể hơn tại mục 9 dưới đây về thích ứng với biến đổi khí hậu).

-        Đề nghị bổ sung định nghĩa về “nguy cơ gây sự cố môi trường”: trong một số điều của Dự thảo có đề cập (ví dụ tại Điều 55. Bảo vệ môi trường trong hoạt động giao thông vận tải) nhưng không có định nghĩa cụ thể, do đó đề nghị phải bổ sung tiêu chí xác định (hoặc liệt kê các lĩnh vực sản xuất kinh doanh/ phương tiện…) “có nguy cơ gây sự cố môi trường” để tránh tùy tiện/ khó khăn trong áp dụng.

2.    Những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7)

-        Khoản 9 quy định cấm nhập khẩu, quá cảnh chất thải, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung trường hợp cấm tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu các chất thải nguy hại, một số hóa chất, điều này thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước về BVMT. Về vấn đề này, Ban soạn thảo có thể tham khảo Quyết định số 5737/QĐ-BCT ngày 28/9/2012 của Bộ Công Thương công bố tạm thời các danh mục hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan, trong đó, danh mục hàng hóa cấm kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu: các loại chất thải nguy hại như ắc quy chì, vỉ mạch điện tử; nhựa phế liệu, phế thải; thiết bị làm lạnh sử dụng C.F.C; hóa chất là tiền chất thuộc diện cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

-        Trong nhiều nội dung khác của Dự thảo có quy định các điều cấm, ví dụ điểm c Khoản 1 Điều 49 về bảo vệ môi trường nước dưới đất (cấm việc đưa vào nguồn nước dưới đất các loại hóa chất…), Khoản 2 Điều 63 về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa (cấm nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện…), đề nghị Ban soạn thảo rà soát và nhóm lại vào một Điều (Các hành vi bị nghiêm cấm) để thuận tiện trong áp dụng.

-        Đề nghị cân nhắc bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm sau đây:

a.     Cấm phê duyệt chiến lược, quy hoạch khi báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) chưa được lập và thẩm định theo quy định của pháp luật.

b.    Cấm cấp phép đầu tư, thực hiện dự án đầu tư, vận hành dự án khi chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được phê duyệt theo quy định của pháp luật.

3.    Quy hoạch môi trường (Điều 8 – Điều 12)

Các quy định về Quy hoạch môi trường trong Dự thảo vẫn còn khá sơ sài và chưa thể hiện rõ giá trị pháp lý của Quy hoạch. Theo dự thảo, Quy hoạch môi trường có hai nội dung:

          Một là, quy hoạch môi trường giống như một chương trình, kế hoạch hành động của các cơ quan nhà nước trong các hoạt động BVMT. Yếu tố này giống như khái niệm quy hoạch, kế hoạch đã được sử dụng nhiều tại Việt Nam. Nếu quy hoạch môi trường được hiểu như vậy, thì các doanh nghiệp quan tâm hơn tới yếu tố công khai và minh bạch trong quá trình lập quy hoạch nhằm giúp cộng đồng doanh nghiệp nắm được thông tin về các dự định của nhà nước, từ đó có các kế hoạch kinh doanh phù hợp.

          Hai là, quy hoạch môi trường sẽ phân vùng môi trường các khu vực trong cả nước, hoặc trong từng địa phương và đặt ra các chế độ bảo vệ khác nhau. Ví dụ, quy hoạch có thể sẽ xác định một khu vực là khu vực được bảo tồn, do đó sẽ cấm hoặc đặt ra điều kiện khó khăn hơn cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh trong khu vực đó. Hoặc một khu vực khác là khu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, vượt quá mức chịu tải của môi trường, từ đó cũng sẽ ngăn cấm việc đưa thêm chất thải vào khu vực. VCCI ủng hộ việc quy hoạch chứa đựng những nội dung mang tính phân vùng quản lý như vậy, tuy nhiên, cần thiết kế các quy định pháp luật cụ thể để quản lý các phân vùng đó không gây khó khăn và đảm bảo công bằng, tự do cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.

4.    Đánh giá môi trường chiến lược

Theo Dự thảo, báo cáo đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) chỉ được tham vấn ý kiến cộng đồng khi có yêu cầu của cơ quan thẩm định, hơn nữa, báo cáo ĐMC cũng không phải thực hiện nghĩa vụ công khai như đối với báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Cơ chế này không đảm bảo quyền được thông tin của người dân trong lĩnh vực môi trường, cộng đồng doanh nghiệp sẽ không được tham gia đóng góp ý kiến trong các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của mình. Do đó, nghị bổ sung quy định về nghĩa vụ tham vấn và nghĩa vụ công khai báo cáo ĐMC.

Đề nghị xem xét quy định vệc lập báo cáo ĐMC cũng cần phải được thực hiện bởi những cá nhân, tổ chức có chuyên môn tương tự như báo cáo ĐTM. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc lập báo cáo ĐMC thường khó khăn, và đòi hỏi trình độ chuyên môn cao hơn so với ĐTM.

5.    Đánh giá tác động môi trường

a.    Đánh giá tác động môi trường ban đầu (Điều 19.2.a)

-        Về cơ bản, thủ tục lập báo cáo ĐTM, thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM hiện nay không hoàn toàn tương thích với thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư. Một số trường hợp doanh nghiệp đã được đồng ý về địa điểm đầu tư, nhưng khi thẩm định báo cáo ĐTM thì lại gặp vướng mắc về mặt địa điểm. Đặc biệt là các dự án thủy điện, vốn được xây dựng dựa trên quy hoạch điện lực của Thủ tướng nên địa điểm và công suất nhà máy đã được xác định từ cấp quy hoạch, đến khi triển khai dự án đầu tư thì khó có thể thay đổi.

          Do đó, VCCI đồng tình với quy định của Dự thảo về việc chia hai cấp báo cáo ĐTM, gồm ĐTM ban đầu và ĐTM chi tiết, theo đó, ĐTM ban đầu chỉ tập trung vào việc tính toán, chấp thuận về địa điểm và công suất, quy mô của dự án, sau đó, ĐTM chi tiết sẽ tập trung vào yếu tố công nghệ, thiết kế xây dựng và phương án quản lý của dự án. Cụ thể, nội dung của báo cáo ĐTM ban đầu sẽ đưa ra một số phương án lựa chọn địa điểm, công suất và quy mô đầu tư, sau đó xác định tác động môi trường của từng phương án đó rồi đưa ra quyết định cuối cùng là chọn địa điểm, quy mô như thế nào. Báo cáo ĐTM chi tiết sẽ trình bày một số phương án lựa chọn công nghệ, thiết kế của dự án, sau đó xác định tác động môi trường của từng phương án đó và đưa ra quyết định lựa chọn công nghệ cuối cùng.

-        Đề nghị bổ sung thêm quy định về công khai và lấy ý kiến tham vấn của chính quyền địa phương, và cộng đồng dân cư các khu vực dự định thực hiện dự án về nội dung của báo cáo ĐTM ban đầu. Điều này tránh việc đặt người dân địa phương vào “sự đã rồi” khi dự án được thực hiện.

b.    Tổ chức thực hiện đánh giá tác động môi trường (Điều 22)

Dự thảo quy định tổ chức thực hiện đánh giá tác động môi trường phải có cán bộ có chứng chỉ hành nghề tư vấn và có đủ điều kiện về kỹ thuật, quy định này tương đối đơn giản và cũng rất hợp lý đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung thêm quy định về việc mỗi bản báo cáo ĐTM phải do ít nhất một cá nhân có chứng chỉ hành nghề ký và chịu trách nhiệm về mặt nội dung. Nếu sau này phát hiện sai phạm trong việc lập báo cáo ĐTM thì người ký sẽ bị xử lý (ví dụ như tước thẻ hành nghề có thời hạn...)

Đề nghị bổ sung quy định rằng chứng chỉ hành nghề này không chỉ được phép lập báo cáo ĐTM mà còn được phép lập cả báo cáo ĐMC.

c.     Thẩm định báo cáo ĐTM (Điều 24)

·       Thẩm quyền tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM

Thẩm quyền tổ chức thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM hiện nay được giao cho cả Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ khác và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh. Tuy vậy, rất nhiều dự án đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước lại do chính các cơ quan này là chủ đầu tư hoặc chỉ đạo đầu tư, vì thế cơ chế này sẽ không đảm bảo tính độc lập, khách quan của quá trình thẩm định. Như vậy, các dự án đầu tư bằng vốn nhà nước có thể dễ dàng cắt giảm được chi phí cho hoạt động BVMT, gây bất bình đẳng cho các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài nhà nước. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung quy định thiết lập cơ chế thẩm định độc lập hơn, cơ quan chủ đầu tư hoặc cơ quan ra quyết định chấp thuận đầu tư sẽ không được phép tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM.

·       Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM

Hiện nay, công tác thẩm định báo cáo ĐTM chứa đựng rất nhiều lỗ hổng cho tham nhũng, tiêu cực. Rất nhiều báo cáo ĐTM được thực hiện một cách hình thức, sơ sài vẫn được thông qua do có tiêu cực với cơ quan chủ trì thẩm định và các thành viên hội đồng. Điều này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc và doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở để trục lợi mà hậu quả nghiêm trọng là gây tác động xấu đến môi trường.

Do đó, đề nghị cải tiến thủ tục thẩm định báo cáo ĐTM theo hướng nâng cao sự độc lập và khách quan của hội đồng thẩm định (HĐTĐ). Cụ thể như sau:

-        Các thành viên của HĐTĐ sẽ được lựa chọn một cách ngẫu nhiên trên một danh sách các chuyên gia môi trường được lập từ trước. Điều này làm giảm sự phụ thuộc của thành viên HĐTĐ đối với cơ quan chủ trì thẩm định.

-        Một số trường hợp không được lựa chọn làm thành viên HĐTĐ, bao gồm: người đã tham gia vào quá trình lập báo cáo ĐTM, người có quan hệ lao động với tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM, người có quan hệ thân thiết (quan hệ gia đình, quan hệ lao động) với chủ dự án…

-        Theo quy định hiện nay, chủ dự án luôn có mặt tại các phiên họp của HĐTĐ. Đề nghị bổ sung quy định cấm tiếp xúc giữa chủ dự án hoặc đơn vị tư vấn với các thành viên của HĐTĐ, bởi hai lý do: (i) đây là cơ hội để chủ dự án hối lộ các thành viên của HĐTĐ, (ii) HĐTĐ chỉ thẩm định dựa trên nội dung báo cáo ĐTM, chứ không dựa trên lời nói hay bất kỳ một sự tác động nào khác từ chủ dự án. Nếu cần trình bày thêm, chủ dự án có thể gửi văn bản bổ sung nội dung của báo cáo ĐTM.

6.    Kế hoạch bảo vệ môi trường (KBM) (Điều 55)

Đây là nghĩa vụ mới được đưa ra trong Dự thảo, áp dụng đối với cả những doanh nghiệp phải lập báo cáo ĐTM và thay thế cho cam kết bảo vệ môi trường (CBM) trước đây. (Lưu ý sửa lại tên của Chương II vì hiện vẫn còn “cam kết bảo vệ môi trường”).

VCCI đồng tình với quy định thay thế CBM bằng KBM vì một số lý do sau:

-        Thứ nhất, các cơ sở thuộc diện lập CBM thường không có khả năng gây nên các vấn đề môi trường không thể khắc phục được, nên không cần thiết phải áp dụng cứng nhắc cơ chế tiền đăng, mà chỉ cần nhấn mạnh cơ chế hậu kiểm;

-        Thứ hai, CBM là văn bản chỉ được lập một lần, trong khi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ thay đổi thường xuyên, nên phương án KBM khả thi hơn.

Tuy nhiên, có một số vấn đề cần xem xét thêm trong cho quy định này, cụ thể như sau.

-        Đối tượng phải lập KBM: Dự thảo hiện đang quy định là mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ? Trong quy định trước đây thì đối tượng phải lập CBM chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát sinh chất thải sản xuất. Đối với các doanh nghiệp không phát sinh chất thải sản xuất như các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn, hình thức hoạt động văn phòng thì không phải lập và nộp KBM, vì họ không biết sẽ lập KBM với những nội dung gì nếu họ không liên quan. Một vấn đề nữa là tác động tới môi trường và chất thải phát sinh của nhiều cơ sở sản xuất nhỏ và quy mô hộ gia đình lẫn trong khu dân cư có tính chất không khác gì tác động tới môi trường và chất thải phát sinh do hoạt động sinh hoạt của người dân. Do đó, yêu cầu các chủ cơ sở này phải thực hiện KBM là không phù hợp và khó khả thi. Do đó, đề nghị thu hẹp lại đối tượng phải lập KBM chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát sinh chất thải sản xuất. Bên cạnh đó, KBM mà tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải thực hiện theo quy định tại Điều 48 có bao gồm ứng phó sự cố môi trường, trong khi đó, Điều 94 về Phòng ngừa sự cố môi trường lại quy định chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… có nguy cơ gây ra sự cố môi trường mới phải lập kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường, do đó, cần thiết phải thu hẹp đối tượng lập KBM.

-        Giá trị pháp lý của KBM: KBM chỉ phải lập và nộp, không cần kiểm tra, thẩm định, nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng kế hoạch do mình đề ra có bị xử lý không? Nếu có biến động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ như tăng tác động môi trường thì có phải lập lại kế hoạch không? Nếu biến động giảm tác động môi trường thì việc không thực hiện đúng kế hoạch có bị xử phạt không?

-        Trong Dự thảo có nhiều điều luật khác sử dụng thuật ngữ kế hoạch bảo vệ môi trường nhưng lại chứa đựng những nội dung không thống nhất với Điều luật quy định về KBM. Ví dụ, Điều luật quy định các khu kinh tế tập trung phải “xây dựng và thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường và ứng phó với sự cố môi trường” và phải có bộ phận chuyên môn phải “tổ chức thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường đã được phê duyệt”. Điều này có thể gây nhầm lẫn về cách hiểu cùng một thuật ngữ.

7.    Giấy chứng nhận về các hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường

Giấy chứng nhận này là một trong những quy định liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên tên gọi cũng như giá trị pháp lý của giấy chứng nhận chưa được làm rõ. Thông thường, giấy chứng nhận có thể có hai dạng giá trị pháp lý khác nhau:

-        Một là, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh (một dạng giấy phép kinh doanh). Theo lý thuyết chung về chính sách công trong quản lý kinh kế, loại giấy này được áp dụng khi thỏa mãn một trong các điều kiện sau: (1) mức độ cạnh tranh của ngành quá khốc liệt, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạ chất lượng lượng dịch vụ nhằm hạ giá thành; (2) nhằm bảo vệ người sử dụng dịch vụ; (3) khi lĩnh vực đó có nguy cơ cao gây tác động môi trường, xã hội và Nhà nước phải tác động để khống chế. Theo lý luận này, giấy chứng nhận nên được cấp cho các hoạt động sau: xây dựng báo cáo ĐMC, ĐTM, quan trắc, phân tích môi trường. Đối với các hoạt động còn lại gồm thông tin về môi trường, nghiên cứu, đào tạo, truyền thông môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường thì không nên áp dụng loại giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh này. Bởi lẽ, những hoạt động đó hoặc là không cần yêu cầu quá cao về BVMT hoặc không đến mức Nhà nước phải can thiệp để hạn chế. Yêu cầu về điều kiện, thủ tục của loại giấy này sẽ gây khó khăn cho nhiều cá nhân, tổ chức muốn nghiên cứu, đào tạo, truyền thông môi trường, muốn sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường.

-        Hai là, giấy chứng nhận đã thực hiện hoạt động BVMT. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện các hoạt động BVMT và mong muốn được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước như miễn giảm thuế. Nhưng các cơ quan thuế thường từ chối các yêu cầu này do họ không có căn cứ xác định doanh nghiệp đó đã thực sự thực hiện hoạt động BVMT, bởi nếu chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/ đăng ký kinh doanh là không đủ. Do đó, việc cơ quan quản lý nhà nước về BVMT cấp giấy chứng nhận này sẽ khuyến khích được doanh nghiệp thực hiện các hoạt động có ích này. Họ có thể sử dụng giấy chứng nhận như một căn cứ để xin ưu đãi, hỗ trợ từ phía nhà nước, hoặc như một hình thức quảng cáo đến khách hàng của họ.

Dự thảo nghiêng về hướng thứ nhất, tức là một dạng điều kiện kinh doanh. Đề nghị Ban soạn thảo chia rõ hai loại giấy chứng nhận để thuận tiện hơn cho doanh nghiệp. Đối với giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề thì chỉ quy định đối với hoạt động tư vấn lập báo cáo ĐMC, ĐTM, quan trắc môi trường, phân tích môi trường; các hoạt động còn lại không cần có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Còn giấy chứng nhận đã thực hiện hoạt động liên quan đến BVMT thì cần cấp cho tất cả các hoạt động đã được liệt kê.

8.    Bảo vệ môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bảo vệ môi trường với làng nghề (Điều 58, 59)

-        Nghĩa vụ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: Điều 58 Dự thảo bắt buộc tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đáp ứng một loạt các yêu cầu về BVMT, gồm có việc thu gom, xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm nguồn lực, trang thiết bị đáp ứng khả năng phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường. Tương tự như ý kiến đối với quy định về KBM, thì chung một quy định áp dụng cho tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là bất hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo xem xét các góp ý tương tự tại phần về KBM để chỉnh sửa cho phù hợp.

Các quy định này yêu cầu tất cả các cơ sở phải áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm việc xả khí thải, nước thải phải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất thải. Mục tiêu BVMT có thể đạt được thông qua việc áp dụng quy định này là tốt đẹp nhưng không phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh, tiềm lực tài chính và khó (đa số là không) thể thực thi được trên thực tế. 

Theo những quy định này thì tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh phải xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế những cơ sở quy mô nhỏ, hộ gia đình nằm rải rác trong các khu dân cư không có khả năng xử lý môi trường theo quy định của pháp luật. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ có thiện chí cải thiện môi trường sản xuất nhưng không có khả năng về kinh tế nên việc yêu cầu các cơ sở này lập KBM và phải đáp ứng yêu cầu về xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo quy định là khó thực hiện. Điều này cũng gây khó khăn cho các cơ quan chức quản lý nhà nước trong quá trình xác nhận và kiểm tra, giám sát việc tuân thủ những quy định về bảo vệ môi trường. Thậm chí, nhiều cơ sở có quy mô nhỏ mong muốn nhà nước đầu tư các công trình xử lý môi trường chung và sẵn sàng trả tiền để được xử lý nhưng các cơ quan quản lý nhà nước cũng khó thực hiện vì hoạt động của các cơ sở này phân tán, thiếu kinh phí đầu tư.

Do đó cần sửa đổi theo hướng tách riêng nghĩa vụ quản lý khí thải và nước thải đối với các cơ sở phải thực hiện ĐTM (là những doanh nghiệp lớn) với các doanh nghiệp nhỏ và cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô hộ gia đình. 

-        Đối với quy định về trách nhiệm của làng nghề: đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc quy định về kết cấu hạ tầng đảm bảo thu gom và xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong khi vấn đề này không rõ do ai thực hiện (UBND cũng chỉ có vai trò chỉ đạo cải tạo, nâng cấp…), nhất là trong thực tế có những tỉnh có hàng chục làng nghề thì xác định trách nhiệm của UBND cụ thể như thế nào.

-        Một số quy định trùng lắp, ví dụ như quy định về trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong làng nghề tại Điều 59 với quy định tương tự của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại điều 58, như vậy thì một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong làng nghề sẽ áp dụng chỉ quy định của làng nghề hay cả quy định của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác. Ở đây cũng cần xem xét tương tự như đối với KBM, nếu đó là cơ sở dịch vụ trong làng nghề (không tham gia sản xuất gây ô nhiễm) thì có phải tuân thủ tất cả các yêu cầu về BVMT như các cơ sở sản xuất không.

9.    Thích ứng với biến đổi khí hậu (Chương III)

Điều 36.1 định nghĩa về Năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Hiện nay, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã có định nghĩa tương tự. Do đó, không cần thiết phải định nghĩa lại ở đây, hoặc nếu có thì tham khảo quy định tại Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để tránh sự không thống nhất giữa hai đạo luật.

Khái niệm sản phẩm thân thiện với môi trường hiện nay vẫn chưa được hiểu rõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Về lý thuyết, một sản phẩm có thể được coi là thân thiện với môi trường nếu (1) quá trình sản xuất ra sản phẩm đó hoặc (2) quá trình sử dụng sản phẩm đó, hoặc (3) quá trình thải bỏ sản phẩm đó gây ít tác động đến môi trường so với sản phẩm cùng loại, sản phẩm có công dụng tương đương. Chính việc thiếu định nghĩa, phân loại rõ ràng nên hiện nay, các biện pháp ưu đãi về sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường không được áp dụng nhiều trên thực tế. Đề nghị bổ sung thêm định nghĩa về sản phẩm thân thiện với môi trường trong Dự thảo.

Điều 37 về tiêu thụ sản phẩm thân thiện với môi trường: Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả và văn bản hướng dẫn đã có quy định về dán nhãn năng lượng cho các sản phẩm, ưu tiên sử dụng các sản phẩm có dán nhãn năng lượng khi mua sắm từ ngân sách nhà nước (Quyết định 68/2011/QĐ-TTg). Đề nghị Ban soạn thảo xem xét để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn.

10. Bảo vệ môi trường biển và hải đảo (Chương IV)

Việc đưa nội dung Bảo vệ môi trường biển và hải đảo vào trong Dự thảo là hợp lý bởi đây là thành phần môi trường ngày càng quan trọng trong bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các quy định trong mục này cần được làm rõ hơn, cụ thể như sau:

-        Bổ sung quy định về đánh giá môi trường (ĐTM, ĐMC và CBM) đối với các chiến lược, quy hoạch, dự án diễn ra trên khu vực biển vì hiện nay Việt Nam chưa có sự phân vùng lãnh thổ biển, nên vấn đề thẩm quyền của địa phương trong công tác đánh giá môi trường sẽ bị ảnh hưởng.

-        Bổ sung quy định về giới hạn của môi trường biển Việt Nam và quyền tài phán của pháp luật Việt Nam về môi trường trên các vùng biển. Bởi việc quản lý BVMT biển trước tiên cần phải xác định hiệu lực không gian của các quy định này. Xác định, xử lý cả những hành vi diễn ra ngoài vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam, nhưng lại gây ô nhiễm đến vùng biển thuộc Việt Nam.

-        Bổ sung quy định về quản lý việc vận chuyển chất thải qua các vùng biển của Việt Nam.

-        Có quy định riêng về tiêu chuẩn và quy chuẩn môi trường ở khu vực biển và hải đảo, bao giờ cả môi trường xung quanh và chất thải.

-        Bổ sung quy định về mang chất thải từ đất liền ra biển để đổ, hoặc lập các khu chôn lấp, xử lý chất thải trên các hòn đảo để giải quyết lượng chất thải phát sinh từ trên đất liền.

-        Đề nghị có phương án BVMT tại các khu vực biển nhạy cảm như khu nuôi trồng hải sản, khu du lịch. Đây vừa là những khu vực cần được bảo vệ, vừa là những khu vực tạo ra nguồn gây ô nhiễm.

11. Quy định về nhập khẩu phế liệu (Điều 64)

Điều 43 Luật bảo vệ môi trường 2005 không quy định về yêu cầu của phế liệu nhập khẩu liên quan đến việc tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật môi trường, Điều 107 của Dự thảo có quy định về hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia gồm quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật về chất thải, nhưng không đề cập tới quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với "phế liệu". Như vậy sẽ không có cơ sở pháp lý để ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu nói chung và phế liệu nhập khẩu nói riêng. Trong hơn 80 loại phế liệu được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất theo Thông tư 01/2013/TT-BTNMT ngày 28/01/2013 thì chỉ một số ít phế liệu được phép nhập khẩu có quy chuẩn kỹ thuật môi trường.

Quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu nhập khẩu giúp cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu nhập khẩu biết được phạm vi, giới hạn tối đa cho phép các tạp chất được phép lẫn trong phế liệu nhập khẩu và các vấn đề có liên quan đến chất lượng phế liệu nhập khẩu. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế liệu nhập khẩu cũng là căn cứ quan trọng cho quá trình kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước, do đó đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung rõ quy chuẩn kỹ thuật về phế liệu được pháp nhập khẩu.

12. Quy định về khoảng cách đảm bảo an toàn

Theo quy định tại Điều 50, 51, 66, 78 đều có điều kiện về khoảng cách đảm bảo an toàn đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên, nguồn nước của các khu kinh tế tập trung, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, của cơ sở xử lý chất thải và cơ sở mai táng.

Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định về phương pháp xác định khoảng cách an toàn đối với cơ sở sản xuất, cất giữ một số loại hoá chất nguy hiểm (quy định tại Điều 22 Luật hoá chất và Điều 13, 14, 15 Nghị định 108/2008/NĐ-CP ngày 7/10/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật hoá chất). Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 về quản lý chất thải rắn mới chỉ quy định trong nội dung quy hoạch quản lý chất thải rắn phải xác định vị trí cơ sở thu gom và xử lý chất thải rắn (Điều 7 khoản 2 điểm c). Có thể hiểu rằng, khi xác định vị trí cơ sở thu gom và xử lý chất thải rắn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khoảng cách an toàn đối với khu dân cư..., pháp luật chưa quy định về phương pháp xác định hoặc khoảng cách cụ thể áp dụng cho những trường hợp còn lại.

Quy định này là cần thiết, nhưng việc áp dụng trên thực tế gặp vướng mắc khi các cơ sở này xuất hiện trước, sau đó các khu dân cư, khu bảo tồn mới xuất hiện sau mà khoảng cách tối thiểu này không đảm bảo. Việc xử lý những trường hợp như vậy gặp rất nhiều khó khăn. Do đó cần có quy định chỉ ra rằng sẽ ban hành các hướng dẫn kỹ thuật về khoảng cách an toàn cần thiết như đã nêu trên.

13. Xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường

Đề nghị bổ sung quy định về dịch vụ xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường.

-        Nghĩa vụ xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường của doanh nghiệp khi để xảy ra ô nhiễm hoặc khi chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh thì trong luật đã đề cập đầy đủ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này thường không có chuyên môn trong lĩnh vực BVMT nên họ khó thực hiện được công tác xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường một cách trọn vẹn. Thông thường, họ sẽ tiến hành thuê một đơn vị chuyên môn thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, cần bổ sung thêm quy định cho phép cơ sở có nghĩa vụ xử lý ô nhiễm phục hồi môi trường thuê đơn vị chuyên môn thực hiện công việc này.

-        Vấn đề tiếp theo cần giải quyết là nghĩa vụ pháp lý khi xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường không đảm bảo. Theo quy định của Dự thảo và theo phương pháp suy luận pháp lý thì nếu cơ sở đã thuê đơn vị chuyên môn nhưng vẫn không đảm bảo xử lý thì trách nhiệm trước nhà nước thuộc về cơ sở đó. Còn đơn vị chuyên môn sẽ chịu trách nhiệm dân sự trước cơ sở đã thuê. Tuy nhiên, điều này làm giảm trách nhiệm và sự chuyên nghiệp của đơn vị chuyên môn. Do đó đề nghị chuyển nghĩa vụ hành chính sang cho đơn vị chuyên môn, điều này cũng tương đồng, phù hợp với trường hợp xử lý chất thải.

14. Quan trắc môi trường

Khoản 3 Điều 121 có quy định chung là các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện chương trình quan trắc phát thải, tương tự như quy định KBM về trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thì cần được xem xét về đối tượng thực hiện để quy định có tính khả thi.

Theo Dự thảo, cơ quan nhà nước chỉ chịu trách nhiệm quan trắc môi trường xung quanh, còn việc quan trắc nguồn thải thuộc về doanh nghiệp thuộc danh mục mà Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp nằm ngoài danh mục quan trắc môi trường đó có những hành vi xả thải vượt quá quy chuẩn cho phép mà công tác thanh tra, kiểm tra tại từng thời điểm không phát hiện được. Do đó, đề nghị bổ sung thêm quy đinh: Đối với các cơ sở nằm ngoài danh mục do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có thẩm quyền lắp đặt các thiết bị quan trắc tại nguồn thải của doanh nghiệp đó, khi thấy cần thiết.

Việc quan trắc không được phép làm cản trở công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí cho việc quan trắc này do cơ quan nhà nước chi trả, cơ sở đó có nghĩa vụ hợp tác và có quyền khiếu nại khi việc quan trắc làm cản trở đến công việc sản xuất kinh doanh của mình.

15. Báo cáo môi trường (Điều 133)

Dự thảo quy định chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nghĩa vụ lập báo cáo công tác BVMT của cơ sở gửi cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có liên quan. Quy định này là không hợp lý vì không thể yêu cầu tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải báo cáo, hơn nữa, các cơ sở này đã có nghĩa vụ lập KBM và nộp định kỳ. Nếu cần, trong nội dung của KBM sẽ bổ sung thêm một mục về công tác BVMT của cơ sở đó trong thời gian trước đó, điều này giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Đối với những cơ sở có nghĩa vụ quan trắc môi trường thì có thể tích hợp luôn cả báo cáo quan trắc vào cùng một văn bản. Như vậy, doanh nghiệp chỉ phải nộp một văn bản cho cơ quan quản lý nhà nước mỗi năm, thay vì việc phải nộp 2-3 văn bản, mà vẫn đảm bảo được những nội dung cần đăng ký, khai báo.

16.Thuế bảo vệ môi trường (Điều 148)

Ngày 15 tháng 11 năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật thuế bảo vệ môi trường, do đó các quy định tại Điều này cần phù hợp với Luật thuế đó, hoặc chỉ cần quy định là các tổ chức, cá nhân tuân thủ Luật thuế bảo vệ môi trường là đủ.

17. Bảo vệ môi trường trong xuất khẩu phế liệu

Luật BVMT và các quy định khác chỉ cấm nhập khẩu, quá cảnh chất thải chứ không cấm xuất khẩu chất thải. Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, pháp luật môi trường chưa có những quy định hướng dẫn về hồ sơ, trình tự, thủ tục xuất khẩu chất thải. Theo nguyên lý chung, nếu chưa có quy định hướng dẫn – và kể cả trong trường hợp đã có quy định hướng dẫn, các nhà xuất khẩu chất thải của Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Công ước Basel về vận chuyển chất thải xuyên biên giới và việc tiêu huỷ chúng. Tuy nhiên, có những quy định của Công ước Basel uỷ quyền cho các quốc gia thành viên quy định cụ thể về những vấn đề nhất định. Do đó, cần có những quy định về vấn đề này mới có thể thực thi những nội dung này của công ước. 

Việc thiếu những quy định này gây ra sự lúng túng cho cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp khi doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu chất thải. Mặc dù khi xuất khẩu chất thải (nếu có) thì nước nhập khẩu sẽ có quy định cụ thể, tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo xem xét quy định thêm quyền được xuất khẩu chất thải của các chủ thể khác nhau và trong Luật sẽ ủy quyền cho Chính phủ ban hành văn bản chi tiết hướng dẫn trình tự, thủ tục xuất khẩu chất thải.

18.Văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

Dự thảo Luật đưa ra rất nhiều quy định cần có văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành, trong đó phần lớn giao cho các Bộ, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản, hoặc phối hợp với các bộ khác. Hình thức của các văn bản này sẽ là thông tư hoặc thông tư liên tịch. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét giảm bớt số lượng điều luật giao quyền cho cấp bộ ban hành văn bản, thay vào đó là để cấp Chính phủ ban hành, vì những lý do sau:

-        Một là, Nghị định của Chính phủ có hiệu lực pháp lý cao hơn Thông tư, quy trình ban hành văn bản cũng chi tiết, khắt khe hơn nhằm đảm bảo chất lượng văn bản tốt hơn. Trong hầu hết các Luật mới ban hành đều giao cho Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung được cụ thể ngay trong Luật chứ không quy định chung chung là “Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật này”.

-        Hai là, trong xu thế cải cách tư pháp Việt Nam hiện nay, theo Nghị quyết số 48-NQ/TW 2020 của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, thì sẽ giảm số lượng văn bản quy phạm pháp luật ở cấp thông tư và thông tư liên tịch.

19. Điều khoản chuyển tiếp

Dự thảo đưa ra khá nhiều các quy định mới mà cần phải có thời gian để cụ thể hóa và chuẩn bị thực thi trên thực tế. Việc tính toán một kế hoạch để thực thi các quy định này là rất quan trọng, tránh tình trạng một số quy định trong Luật BVMT 2005 đã được xây dựng nhưng không hoặc chậm được thực thi. Một số ví dụ điển hình như quy định về thu hồi sản phẩm thải bỏ, giám định thiệt hại môi trường, bảo hiểm môi trường. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét có lộ trình triển khai các vấn đề sau, nếu được thông qua:

-        Quy hoạch môi trường:

Các văn bản hướng dẫn nội dung này không khó, nên có thể được xây dựng để có hiệu lực cùng thời điểm với hiệu lực của luật. Tuy nhiên, vấn đề cần xác định là thời điểm dự kiến ban hành quy hoạch môi trường cấp quốc gia lần đầu tiên và thời hạn chậm nhất để các địa phương ban hành quy hoạch môi trường cấp tỉnh. Do thời kỳ quy hoạch khá dài (10 năm) nên có thể dự kiến khoảng thời gian này rộng hơn, nhằm giúp các cơ quan xây dựng Quy hoạch tốt hơn.

-        Kế hoạch bảo vệ môi trường:

Thời hạn ban hành các mẫu kế hoạch bảo vệ môi trường và thời gian doanh nghiệp bắt đầu có nghĩa vụ phải nộp kế hoạch BVMT. Đây là một vấn đề phức tạp do có nhiều hình thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, mỗi hình thức lại đòi hỏi một mẫu KBM khác nhau. Do đó, có thể quy định thời điểm có hiệu lực của các quy định này sau khoảng 6 tháng so với thời điểm có hiệu lực của cả văn bản.

-        Chứng chỉ hành nghề đánh giá môi trường:

Vấn đề cấp chứng chỉ hành nghề thường rất phức tạp do phải ban hành văn bản hướng dẫn, tổ chức đào tạo, tổ chức thi sát hạch. Vì vậy, thời điểm có hiệu lực của quy định này có thể sau khoảng 12 tháng so với thời điểm có hiệu lực của cả văn bản. Trước khi tổ chức thi sát hạch lần đầu thì điều kiện của tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM vẫn áp dụng văn bản cũ.

-        Giấy chứng nhận BVMT:

Đây là một quy định ngỏ và sẽ cần rất nhiều thời gian để soạn thảo và ban hành văn bản quy định các điều kiện cụ thể. Thậm chí, tùy thuộc vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực đó mà sẽ có chính sách điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ. Do đó, đề nghị quy định rằng các hoạt động sản xuất kinh doanh được quy định cần giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trong Luật này vẫn sẽ được tiếp tục kinh doanh không cần điều kiện cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định yêu cầu. Điều này giúp Chính phủ chủ động hơn trong việc điều hành ngành, lĩnh vực sản xuất kinh tế này, đồng thời cũng không gây cản trở, vướng mắc cho doanh nghiệp.

Trên đây là một số ý kiến tham gia của VCCI, trân trọng gửi tới Quý Cơ quan xem xét, nghiên cứu để hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn.

Các văn bản liên quan