Công văn góp ý của VCCI đối với Dự thảo Luật hải quan (sửa đổi)

Thứ Sáu 14:55 16-08-2013

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vv: góp ý Dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi)

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


Hà Nội, ngày 13 tháng 8 năm 2013

I.               Quan điểm tiếp cận

Việc soạn thảo và ban hành Luật Hải quan sửa đổi (gọi tắt là Dự thảo) là cần thiết nhằm khắc phục những bất cập của các quy định hiện tại, phù hợp với yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan, vừa đảm bảo yếu tố quản lý vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu trên, các quy định tại Dự thảo cần đáp ứng các yêu cầu như:

-        Minh bạch: các quy định cần rõ ràng, tạo cách hiểu thống nhất giữa các đối tượng áp dụng

-        Hợp lý:

+ Các quy định phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu về đơn giản hóa thủ tục hành chính.

+ Các quy định phải bao quát được các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế

Đối chiếu với Dự thảo, các doanh nghiệp cho rằng, về cơ bản Dự thảo đã có những bước tiến theo hướng cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, còn có một số quy định chưa đảm bảo được nguyên tắc trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc để hoàn thiện.

II.            Góp ý cụ thể

1.    Một số quy định tại Dự thảo chưa đảm bảo tính minh bạch

-        Dự thảo có quá nhiều quy định trao quyền cho các văn bản dưới luật

Trong toàn bộ Dự thảo, có ít nhất 24 điều quy định mang tính chất “trao quyền” cho các văn bản dưới luật quy định như “Chính phủ quy định cụ thể”, “theo quy định của Chính phủ”, “Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn”. Với xu hướng này các quy định của Luật vẫn còn chung chung và ngay cả khi ra đời khó có thể thi hành ngay, rơi vào tình trạng muốn thực hiện, tiếp tục“chờ” các văn bản hướng dẫn. Điều này cũng chưa thống nhất với tinh thần và quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại toàn bộ văn bản và quy định theo hướng giảm tối thiểu các quy định dẫn chiếu tới văn bản dưới luật (chỉ giới hạn ở những quy định mang tính kỹ thuật, nhiều khả năng thay đổi thì mới dẫn chiếu tới văn bản dưới luật) để đảm bảo tính minh bạch và giá trị pháp lý cao của các quy định. Ví dụ: Cần quy định ngay trong Luật về “Chứng từ thay thế tờ khai hải quan” (điểm a khoản 1 Điều 24), chỉ giao cho Bộ Tài chính quy định về mẫu tờ khai, tờ lược khai hải quan. Cần quy định rõ ràng các trường hợp phải nộp thêm những chứng từ như: Hóa đơn thương mại; Chứng từ vận tải; Hợp đồng mua bán hàng hóa; Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hoặc văn bản thông báo kết quả kiểm tra hoặc miễn kiểm tra chuyên ngành (điểm b khoản 1 Điều 24) mà không trao quyền cho Chính phủ quy định cụ thể điều này…

Bên cạnh đó, với những vấn đề buộc phải hướng dẫn ở Nghị định thì đề nghị Bộ Tài chính, Ban soạn thảo cần chuẩn bị luôn các dự thảo Nghị định trình Chính phủ và đưa ra lấy ý kiến cùng với dự thảo Luật này để các doanh nghiệp có thể nắm được tổng thể các quy định liên quan.

Một số quy định mới, mang tính hội nhập quốc tế cũng cần được làm rõ, ví dụ như hệ thống thông tin một cửa quốc gia (Điều 25, 68).

-        Dự thảo có nhiều quy định mang tính định tính, thiếu các tiêu chí xác định cụ thể, trao nhiều quyền vận dụng và suy đoán cho cán bộ cơ quan nhà nước, có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp và tạo ra dư địa cho tình trạng tham nhũng. Ví dụ:

+ Về hồ sơ hải quan (Điều 24.1.b): cần làm rõ chứng từ vận tải là (những) chứng từ cụ thể gì.

+ Về xác định xuất xứ hàng hóa (Điều 27): Khoản 3 quy định: “Trường hợp cần thiết, cơ quan hải quan tiến hành điều tra, xác minh xuất xứ hàng hóa tại nước sản xuất hàng hóa theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia …”. “Trường hợp cần thiết” ở đây được hiểu là những trường hợp nào? Dự thảo không có quy định mang tính nguyên tắc hoặc tiêu chí xác định các trường hợp này, trong khi chính quy định này ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của doanh nghiệp vì “kết quả điều tra, xác minh xuất xứ được cơ quan hải quan sử dụng làm căn cứ để quyết định cho hưởng các ưu đãi, áp dụng các chính sách quản lý đối với hàng hóa nhập khẩu”.

+ Về các “trường hợp khai trên tờ khai hải quan giấy” (khoản 3 Điều 29): Dự thảo quy định “Khai hải quan được thực hiện theo phương thức điện tử. Chỉ đối với một số trường hợp cụ thể theo quy định của Chính phủ, người khai hải quan được khai trên tờ khai hải quan giấy”. Dự thảo cần đưa ra tiêu chí để xác định các trường hợp này, bên cạnh yếu tố về tính minh bạch còn đảm bảo về việc thực hiện mục tiêu cải cách thủ tục hành chính theo hướng tăng cường các thủ tục trên phương tiện điện tử, bởi không có các tiêu chí xác định có thể dẫn tới sự “lạm dụng” trong các văn bản hướng dẫn khi quy định các trường hợp được khai trên từ khai hải quan giấy này.

+ Về lý do “không chấp nhận đăng ký tờ khai hải quan” (Điều 30.3): Dự thảo có quy định cơ quan hải quan có thể từ chối đăng ký tờ khai hải quan và thông báo lý do bằng văn bản hoặc qua phương thức điện tử cho người khai hải quan. Dự thảo cũng không quy định các trường hợp mà cơ quan hải quan không chấp nhận đăng ký tờ khai hải quan hoặc đưa ra các tiêu chí để các văn bản hướng dẫn quy định chi tiết. Việc thiếu rõ ràng trong quy định này có thể gây ra sự lạm quyền của các cán bộ hải quan trong thực thi nhiệm vụ và gây cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp.

+ Về kho bảo thuế (Điều 62): Khoản 2 quy định “Nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được lưu giữ tại kho bảo thuế trong thời gian không quá 12 tháng kể từ ngày gửi vào kho trường hợp có lý do chính đáng theo yêu cầu của chu trình sản xuất kinh doanh thì được gia hạn phù hợp”. Như thế nào được cho là “có lý do chính đáng” trong trường hợp này? Được gia hạn bao lâu thì được cho là “phù hợp”, quy trình thủ tục như thế nào để được gia hạn?

+ Về kiểm tra sau thông quan (Điều 78): Khoản 2 quy định “Kiểm tra sau thông quan được thực hiện tại trụ sở cơ quan hải quan hoặc tại trụ sở của người khai hải quan, chủ hàng”. Quy định này chưa rõ ràng ở điểm, trường hợp nào thì kiểm tra tại trụ sở hải quan, trường hợp nào thì kiểm tra tại trụ sở của người khai hải quan, chủ hàng? Đề nghị Ban soạn thảo quy định các trường hợp trên hoặc quy định các tiêu chí để làm căn cứ cho các văn bản hướng dẫn.

+ Về giải phóng hàng (Điều 36): So với Luật Hải quan hiện hành, Dự thảo đã bổ sung quy định về giải phóng hàng. Các doanh nghiệp cho rằng đây là quy định tiến bộ, góp phần minh bạch hóa về thủ tục hải quan cũng như gắn trách nhiệm của các bên trong thủ tục này, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, về quy định giải phóng hàng tại Điều 36 (“2. Số thuế chính thức phải nộp được xác định sau khi có kết quả xác định giá, giám định, phân tích, phân loại. Thời hạn xác định số thuế chính thức phải nộp không quá 30 ngày kể từ ngày giải phóng hàng”), một số doanh nghiệp đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng: xác định thời hạn số thuế tạm nộp là bao nhiêu ngày kể từ ngày khai hải quan tại khoản 1 để đảm bảo tính minh bạch và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, bởi thời hạn này liên quan đến thời điểm doanh nghiệp được giải phóng hàng. Đề nghị Ban soạn thảo tính toán hợp lý về thời hạn này theo hướng rút ngắn thời gian vì khó khăn của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với thời gian không được giải phóng hàng và kéo theo hàng loạt hệ lụy khác.

+ Về trị giá hải quan (Điều 89): Khoản 3 Dự thảo quy định “Trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên, phù hợp với cam kết quốc tế”. Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể hơn về “giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên” là giá nào? Được tính theo từng lô hàng nhập hay bao gồm cả những chi phí doanh nghiệp đã chi để phục vụ kinh doanh trong một thời gian nhất định? Cần phải quy định rõ về điều này bởi vì trên thực tế đã phát sinh các vướng mắc xuất phát tự sự thiếu rõ ràng trong quy định về trị giá hải quan.

Đã tiếp thu + Về kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan, chủ hàng (Điều 81): điểm a khoản 2 quy định: “Thời hạn kiểm tra của mỗi quyết định kiểm tra tại trụ sở người khai hải quan, chủ hàng tối đa là 15 ngày làm việc; trừ trường hợp kiểm tra để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, chủ hàng thì thời hạn kiểm tra tối đa là 30 ngày làm việc”. Theo quy định này thì dường như có hai mục đích kiểm tra sau thông quan khác nhau, trong đó có nêu rõ 30 ngày để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, chủ hàng còn khoảng thời gian 15 ngày thì không rõ mục đích của kiểm tra là gì? Hơn nữa, mục đích chính của kiểm tra sau thông quan là “kiểm tra sự tuân thủ pháp luật của chủ hàng, người khai hải quan”, không rõ ngoài mục đích này thì đoàn kiểm tra còn kiểm tra điều gì khác? Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng thống nhất một khoảng thời gian.

-        Dự thảo cần bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan hải quan, ví dụ:

+ Điều 12 cần bổ sung trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ người làm thủ tục hải quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục.

+ Điều 82 quy định về quyền và trách nhiệm của cơ quan hải quan khi kiểm tra sau thông quan: Điều này chủ yếu thể hiện quyền chứ chưa thể hiện trách nhiệm của cơ quan hải quan đối với doanh nghiệp. Đề nghị bổ sung quy định: Trong kiểm tra sau thông quan, cơ quan hải quan và trưởng đoàn kiểm tra có trách nhiệm giải thích cho đối tượng được kiểm tra về kết quả kiểm tra (ví dụ: các căn cứ truy thu thuế), tạo cơ hội cho doanh nghiệp được giải trình và cung cấp tài liệu liên quan đến các kết luận ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Cần làm rõ hơn trách nhiệm của cơ quan hải quan đối với người khai hải quan, với chủ hàng nếu quyết định kiểm tra sau thông quan là sai (do việc thông quan trước đây là đúng hoặc việc thông quan trước đây sai do lỗi của công chức, viên chức hải quan).

+ Điều 86 quy định về trách nhiệm của cơ quan hải quan trong việc tổ chức thu thuế và các khoản thu khác: đề nghị bổ sung quy định “công chức hải quan chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao” vì trên thực tế, công chức hải quan hầu như chưa phải chịu trách nhiệm tương xứng khi có phát hiện có gian lận về thuế và phải truy thu thuế, dẫn đến khả năng có thể thông đồng với doanh nghiệp làm sai lệch hồ sơ để trốn thuế…

Thậm chí, có ý kiến cho rằng để không phải nhắc lại trách nhiệm của công chức, viên chức hải quan trong tất cả các vấn đề thì cần thiết kế một quy định chung thể hiện nguyên tắc sẽ có chế tài xử lý đối với cán bộ, công chức làm sai, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức hải quan các cấp khi ra quyết định hải quan. Điều này cũng thể hiện tính công bằng, minh bạch và dân chủ khi quy định trách nhiệm của cả hai phía: cơ quan hải quan và người thực hiện thủ tục hải quan.

2.    Một số quy định tại Dự thảo chưa đảm bảo tính hợp lý

-        Về vấn đề đáp ứng yêu cầu về đơn giản hóa thủ tục hành chính: Về cơ bản các quy định tại Dự thảo được sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp khi tiến hành thủ tục, tuy nhiên vẫn còn một số quy định còn chưa đáp ứng được yêu cầu này, Ban Soạn thảo cần rà soát lại toàn bộ dự thảo, chẳng hạn:

Đã tiếp thu+ Về xác định trước mã số, xác nhận trước xuất xứ, xác định trước trị giá hải quan (Điều 28): Các doanh nghiệp cho rằng việc sửa đổi quy định này là tiến bộ, vừa giảm áp lực làm việc của cơ quan hải quan vừa giúp tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa, hạn chế được tình trạng “ách tắc hàng hóa” khi chưa có sự thống nhất giữa cơ quan hải quan và doanh nghiệp trong việc xác định mã số, xuất xứ và trị giá hải quan. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 28 thì không phải doanh nghiệp nào cũng được quyền đề nghị cơ quan hải quan xác định trước mã số, xác nhận trước xuất xứ, trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của Chính phủ[1]. Việc áp đặt điều kiện cho các doanh nghiệp khi thực hiện quyền này có thể khiến cho việc thực hiện quy định – mang tính cải cách thủ tục hành chính này chỉ mang tính hình thức trên thực tế, bởi vì, không rõ các điều kiện là gì? Có bao nhiêu doanh nghiệp có thể đáp ứng được điều kiện này (nếu có ít doanh nghiệp đáp ứng điều kiện thì việc giảm ách tắc hàng hóa và giảm tải công việc cho hải quan cũng không đáng kể)? Và doanh nghiệp lại phải thực hiện thêm một thủ tục hành chính nữa để thực hiện “quyền” đề nghị cơ quan nhà nước xác định trước mã số, xuất xứ, trị giá hải quan. Các doanh nghiệp cho rằng, Ban soạn thảo nên quy định theo hướng doanh nghiệp có quyền đề nghị cơ quan hải quan xác định trước mã số, xác nhận trước xuất xứ, xác định trước trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không có điều kiện ràng buộc nào khác.

+ Về thủ tục hải quan: Mục 1 Chương III Dự thảo quy định chung về thủ tục hải quan. Tuy nhiên, tại các điều khoản của Mục này không thấy quy định rõ ràng về thủ tục hải quan điện tử: từ khai hải quan, hồ sơ hải quan đến kiểm tra hồ sơ hải quan mà chỉ hướng đến quy định của “pháp luật về hệ thống một cửa quốc gia”. Tuy nhiên, tại điểm a khoản 2 Điều 25 quy định “Trường hợp khai hải quan điện tử, khi cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa, người khai hải quan phải nộp các chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan trừ những chứng từ đã có trong hệ thống thông tin một cửa quốc gia. Trường hợp hàng hóa được miễn kiểm tra hồ sơ hải quan, người khai hải quan phải nộp các chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan trong vòng 7 ngày kể từ ngày cơ quan hải quan quyết định thông quan trừ những chứng từ đã có trong hệ thống thông tin một cửa quốc gia”. Quy định này được hiểu đây là một khâu trong thủ tục hải quan truyền thống hay là một khâu của thủ tục hải quan điện tử? Nếu là một khâu của thủ tục hải quan điện tử thì quy định này là chưa hợp lý, chưa giảm thiểu thủ tục hành chính. Bởi vì, cho dù doanh nghiệp có tiến hành khai hải quan điện tử thì cũng phải nộp hồ sơ giấy và xuất trình hồ sơ giấy cho cơ quan hải quan như thủ tục truyền thống. Như vậy yêu cầu và ý nghĩa của cải cách thủ tục hành chính khi áp dụng thủ tục hải quan điện tử là chưa có. Do vậy, một số doanh nghiệp đề nghị, hồ sơ hải quan đã khai điện tử thì nên khai điện tử hoàn toàn, nếu hồ sơ điện tử còn thiếu thì cơ quan hải quan có trách nhiệm thông báo với người khai hải quan để họ bổ sung hồ sơ điện tử trước khi tiến hành kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa. Việc bổ sung hồ sơ hải quan điện tử một cách thống nhất sẽ giúp việc quản lý hồ sơ được dễ dàng, đồng bộ và tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Toàn bộ hồ sơ được lưu giữ tại hệ thống thông tin điện tử mà không cần văn bản cứng. Trường hợp người khai hải quan không thể bổ sung hồ sơ điện tử thì mới cần thiết bổ sung hồ sơ giấy theo quy định.

-        Một số quy định chưa phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho doanh nghiệp

Đã sửa xuống 5 năm + Về nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan (điểm đ khoản 2 Điều 18) và thời hạn kiểm tra sau thông quan (khỏan 3 Điều 78): Dự thảo quy định các khoảng thời hạn này là 10 năm. Mặc dù Luật Kế toán có quy định tương tự về thời hạn lưu chứng từ tối thiểu mười năm đối với chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính, sổ kế toán và báo cáo tài chính năm, hầu hết các doanh nghiệp được lấy ý kiến đều cho rằng, quy định thời hạn 10 năm trong Dự thảo này là chưa thuận lợi cho doanh nghiệp và cần được điều chỉnh cho phù hợp tùy từng loại chứng từ/ tài liệu, tùy từng nhóm đối tượng cụ thể (theo đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp), ví dụ: báo giá, phiếu đóng gói chỉ cần lưu trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó cần xem xét phương thức lưu chứng từ điện tử thì sẽ khắc phục được trở ngại về thời gian.

          + Góp ý tương tự đối với thời hạn kiểm tra sau thông quan là 10 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan quy định tại khoản 3 Điều 78. Nhiều ý kiến cho rằng trong thời hạn 10 năm này, doanh nghiệp coi như chưa hoàn thành xong một hoạt động là quá nặng nề, do đó đề nghị Ban soạn thảo rút ngắn tối đa thời gian này.

+ Về kiểm tra hàng hóa, phương tiện vận tải trong địa bàn hoạt động hải quan (Điều 35) và thông quan hàng hóa (Điều 37): Khoản 2 Điều 35: "Hàng hóa thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành phải được lưu giữ tại cửa khẩu và chịu sự giám sát hải quan cho đến khi được thông quan, trừ trường hợp pháp luật cho phép đưa về các địa điểm khác để tiến hành việc kiểm tra chuyên ngành", Khoản 3 Điều 37: "Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải kiểm tra, phân tích, giám định để xác định có được phép xuất khẩu, nhập khẩu hay không, cơ quan hải quan chỉ cho phép thông quan hàng hóa khi đã xác định hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở kết luận kiểm tra, phân tích, giám định hoặc thông báo miễn kiểm tra của cơ quan quản lý chuyên ngành". Có ý kiến đề nghị đối với các doanh nghiệp chế xuất không áp dụng hình thức lưu giữ, đối với các loại hàng có cùng mã HS thì chỉ phải kiểm tra 1 lần, lưu lại mẫu và không kiểm tra với những lô hàng tiếp theo. Doanh nghiệp sẽ tự chịu trách nhiệm và chấp nhận bị kiểm tra theo xác suất nhằm quản lý rủi ro của cơ quan hải quan.

+ Về kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa tạm nhập khẩu, tạm xuất khẩu (Điều 48): Khoản 2 quy định “Hàng hóa tạm xuất khẩu phải tái nhập khẩu, hàng hoá tạm nhập khẩu phải tái xuất khẩu trong thời hạn quy định và phải được làm thủ tục hải quan”. Việc quy định phải tái xuất khẩu/tái nhập khẩu “trong thời hạn quy định” có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp bởi vì thực tế các trường hợp hàng hóa tạm nhập hoặc tạm xuất đều phụ thuộc vào thời hạn của công việc, dự án hay chu kỳ sửa chữa, do đó đề nghị Ban soạn thảo sửa cụm từ “trong thời hạn quy định” thành “theo thời hạn đã đăng ký với cơ quan hải quan”.

+ Về trị giá hải quan (Điều 88): Khoản 2 quy định “trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu xuất, không bao gồm phí bảo hiểm và phí vận tải quốc tế”. Việc quy định “giá bán tại cửa khẩu xuất” có thể sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong trường hợp hàng hóa được xuất bán theo các điều kiện incoterms khác và như vậy thì doanh nghiệp phải quy đổi theo giá bán tại cửa khẩu xuất trong khi không có công thức quy đổi phù hợp. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi khoản 2 thành “Trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu là giá bán để xuất khẩu hàng hóa đến nước nhập khẩu, không bao gồm phí bảo hiểm và phí vận tải quốc tế.”

Khoản 3 quy định “trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu quốc tế là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên, phù hợp với cam kết quốc tế”. Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ giá thực tế phải trả này xác định như thế nào, tính theo từng lô hàng nhập khẩu hay gồm cả các chi phí khác của doanh nghiệp để phục vụ hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định.

Cũng liên quan đến trị giá hải quan, khoản 4 có quy định “Tỷ giá tính thuế là tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với đồng tiền nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế. Trường hợp tại thời điểm tính thuế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không công bố tỷ giá tính thuế thì áp dụng tỷ giá tính thuế của lần công bố gần nhất”. Đề nghị sửa thành “Tỷ giá tính thuế là tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam với đồng tiền nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố vào thời điểm gần nhất với ngày đăng ký tờ khai hải quan hoặc tại ngày đăng ký tờ khai hải quan. Trường hợp trước 01 ngày đăng ký tờ khai hải quan hoặc tại ngày đăng ký tờ khai hải quan, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không công bố tỷ giá hối đoái thì áp dụng tỷ giá tính thuế của ngày hôm trước liền kề”, bởi vì đối với lô hàng thuộc luồng vàng, đỏ: các doanh nghiệp ở xa địa điểm làm thủ tục hải quan hoặc vì những lý do khách quan, doanh nghiệp tiến hành nộp hồ sơ giấy 1 ngày sau khi khai báo hải quan, điều này sẽ phải tính lại thuế nếu tỷ giá thay đổi, gây nhiều thủ tục khó khăn cho doanh nghiệp (xét thực tế, tỷ giá qua hàng ngày không làm thay đổi lớn số tiền thuế phải nộp).

-        Một số quy định tại Dự thảo chưa bao quát hết các trường hợp xảy ra trên thực tế, đặc biệt là các trường hợp mang tính đặc thù, ví dụ:

+ Về phương thức và thời gian giám sát hải quan (Điều 42): Khoản 1 Dự thảo quy định về các phương thức giám sát hải quan. Tuy nhiên, đây là các phương thức áp dụng chung và có thể chưa phù hợp với một số hàng hóa có phương thức đóng gói đặc thù, ví dụ như container flatrack (Là loại container không có cửa, hai đầu container có thể gấp lại được hàng hoá chuyển vào container có thể chuyển từ bên trái, bên phải, từ trên cao xuống).

+ Về hàng hóa được xuất khẩu, nhập khẩu theo đường bưu chính, chuyển phát nhanh (Điều 52): Khoản 2 Dự thảo quy định “Trong trường hợp người được ủy quyền khai hải quan là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế thì phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của người khai hải quan theo quy định của Luật này; chỉ được chuyển, phát hàng hóa sau khi được thông quan”. Quy định này chưa hợp lý ở điểm, thực tế các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế không cần phải có giấy ủy quyền (bằng văn bản) của chủ hàng để thực hiện việc khai hải quan. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định trên như sau: “Trong trường hợp người khai hải quan là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế thì phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của người khai hải quan theo quy định của Luật này; chỉ được chuyển, phát hàng hóa sau khi được thông quan”.

+ Một số ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu và có những quy định riêng, đặc thù cho ngành dịch vụ chuyển phát nhanh, có thể tách rời khỏi ngành bưu chính truyền thống, để đảm bảo sự phù hợp và thuận lợi cho các doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực này.

+ Đề nghị bổ sung trường hợp của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tồn đọng được lưu giữ tại các khu vực kho, bãi thuộc địa bàn hoạt động của cơ quan hải quan là: “Hàng hóa gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh và đã quá thời hạn làm thủ tục hải quan theo luật định”.

+ Theo ý kiến của một số doanh nghiệp, Dự thảo nên bổ sung các quy định tạo thuận lợi cho các tổ chức có hoạt động thương mại có phạm vi toàn cầu.

-        Dự thảo có một số quy định can thiệp sâu vào quyền tự chủ của doanh nghiệp:

+ Về trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng (Điều 45): khoản 6 quy định chỉ cho phép vận chuyển hàng hóa ra, vào khu vực cảng, kho, bãi theo thông báo chấp nhận của cơ quan hải quan, có ý kiến cho rằng quy định này chỉ áp dụng đối với kho bảo thuế, kho hải quan, các kho, bãi, cảng hải quan quản lý còn đối với kho luân chuyển thông thường của doanh nghiệp thì không cần quản lý như vậy.

+ Về trách nhiệm của thương nhân sản xuất hàng hóa xuất khẩu (Điều 60): khoản 4 quy định, doanh nghiệp phải có trách nhiệm “lưu giữ nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư phục vụ sản xuất và sản phẩm xuất khẩu trong khu vực sản xuất. Trong trường hợp lưu giữ ngoài khu vực sản xuất phải được sự đồng ý của cơ quan hải quan”. Quy định này dường như can thiệp sâu vào quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và làm phát sinh thêm thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp (như việc doanh nghiệp phải xin phép của cơ quan hải quan khi lưu giữ nguyên vật liệu ngòai khu vực sản xuất). Việc lưu giữ nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư phục vụ sản xuất và sản phẩm xuất khẩu ở đâu là quyền của doanh nghiệp, phù hợp với đặc thù cũng như sự thuận tiện trong sản xuất, kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hải quan chỉ nên quản lý khi hàng hóa đó được xuất khẩu và chỉ ở phương diện là thuế cũng như thủ tục hải quan đối với loại hàng hóa đó. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này.

-        Một số quy định chưa hợp lý khác:

+ Về khai hải quan (Điều 29): Khoản 5 quy định, quá thời hạn quy định mà người khai hải quan mới phát hiện sai sót trong việc khai hải quan và khai bổ sung thì bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Trường hợp khai bổ sung này tương tự như khai bổ sung trong hồ sơ thuế có sai sót về thuế. Đề nghị Ban soạn thảo quy định theo hướng, nếu trường hợp sai sót không ảnh hưởng đến số thuế phải nộp, chính sách mặt hàng thì không bị xử phạt, ngược lại thì mới bị xử phạt.

+ Về thời hạn lưu giữ nguyên vật liệu nhập khẩu tại kho bảo thuế (khoản 2 Điều 62): theo quy định tại khoản 2 thì thời hạn này là 12 tháng. Một số ý kiến cho rằng việc quy định thời hạn trong trường hợp này là chưa hợp lý bởi sẽ khiến cho mục đích của kho bảo thuế không có ưu thế nhiều hơn so với thời hạn ân hạn thuế trong trường hợp nhập nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu (nếu doanh nghiệp đáp ứng điều kiện hưởng ân hạn thuế là 275 ngày). Do vậy, có ý kiến cho rằng nên chăng thay vì đặt ra thời hạn bảo thuế có thể thay bằng yêu cầu giám sát riêng hàng hóa nhập khẩu cho mục đích bảo thuế và báo cáo về tình trạng nguyên vật liệu nhập khẩu cũng như sản phẩm xuất khẩu theo định kỳ.



[1] Khoản 3 Điều 28: “Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện xác định trước mã số, xác nhận trước xuất xứ, xác định trước trị giá hải quan quy định tại điểm b khoản 1 Điều 18 và trình tự, thủ tục thực hiện xác định trước, thời hạn hiệu lực của văn bản xác định trước tại Điều này”

Điểm b khoản 1 Điều 18: “Đề nghị cơ quan hải quan xác định trước mã số, xác nhận trước xuất xứ, xác định trước trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khi có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ”

Các văn bản liên quan