Một số quan điểm củng cố và phát triển nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong bộ luật tố tụng dân sự
Một số vấn đề về giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự
MỘT
SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO THỦ TỤC TỐ TỤNG
DÂN SỰ
THS. NGUYỄN NHƯ QUỲNH - Khoa Luật Dân sự – Trường
Đ.H Luật Hà nội
Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng
của sở hữu trí tuệ, các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cũng xảy ra ngày
càng nhiều hơn. Tranh chấp sở hữu trí tuệ là một loại tranh chấp dân sự hoặc
tranh chấp thương mại cụ thể, bởi vậy việc giải quyết loại tranh chấp này dựa
trên cơ sở nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định chung trong Bộ luật tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, đây là loại tranh chấp đặc thù xuất phát từ tính chất
vô hình của các đối tượng sở hữu trí tuệ; hơn nữa đây lại là loại tranh chấp
còn tương đối mới mẻ. Thực tế cũng chỉ ra rằng, việc giải quyết các tranh chấp
về quyền sở hữu trí tuệ gặp rất nhiều khó khăn. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết loại tranh chấp này, cơ sở pháp
lý chưa hoàn thiện cũng là nguyên nhân cơ bản.
Bài viết này đề cập đến những vấn đề pháp lý cơ bản, quan trọng trong qúa
trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tụê theo thủ tục tố tụng dân
sự, tuy nhiên lại chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ, chưa đầy đủ trong
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản pháp luật liên quan.
1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở
hữu trí tuệ
Trong ba loại biện pháp được áp dụng để giải quyết các tranh chấp về quyền
sở hữu trí tuệ, ranh giới giữa biện pháp hình sự và hai biện pháp còn lại là
biện pháp dân sự và biện pháp hành chính tương đối rõ ràng.[1] Thông thường,
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự nếu
trước đó đã bị xử lý hành chính. Trong khi đó, ranh giới giữa biện pháp dân sự
và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt vấn đề những tranh
chấp nào được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và những tranh chấp nào
được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, nhiều tranh chấp về quyền
sở hữu trí tuệ lẽ ra phải được giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng
lại giải quyết theo thủ tục hành chính. Theo thống kê, trong những năm qua, hầu
hết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ được giải quyết bằng biện pháp hành
chính. Không ít người lo ngại rằng, việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở
hữu trí tuệ đang bị hành chính hoá. Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn
đến sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, các cơ quan đôi khi thực
hiện công việc không thuộc thẩm quyền của mình, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi
quyền sở hữu trí tuệ.
Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989 lần đầu tiên quy định cho
Toà án thẩm quyền xét xử các tranh chấp về quyền trí tuệ mà cụ thể là quyền sở
hữu công nghiệp tại Điều 29. Theo quy định của Pháp lệnh, thẩm quyền xét xử các
tranh chấp sở hữu công nghiệp của Toà án rất hẹp. Cụ thể, Toà án
chỉ có thẩm quyền xét xử bốn loại tranh chấp và vi phạm sau: hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ; tranh chấp liên quan đến việc
tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
phải trả khoản tiền cho chủ văn bằng bảo hộ trong trường hợp bắt buộc chuyển
giao quyền sử dụng đối tượng sở hưũ công nghiệp; tranh chấp liên quan đến việc
cấp văn bằng bảo hộ cho tổ chức, cá nhân không có quyền nộp đơn; tranh chấp
liên quan đến việc trả thù lao cho tác giả và người thừa kế của tác giả sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp[2].
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định tranh
chấp về quyền sở hữu trí tụê, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án (khoản 40-Điều 25, khoản 2-Điều 29). Bộ luật dân sự năm 1995 và các
văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp trong
Bộ luật[3] cũng chỉ quy định: tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, tác giả, chủ sở hữu
đối tượng sở hữu công nghiệp có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan nhà nước thẩm
quyền bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại; tranh chấp về quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự[4]. Ngày
21/8/1997, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 97/KHXX xác định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.
Tiếp đó, ngày 5/12/2001, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ văn hoá-thông tin đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT về giải quyết các tranh chấp liên quan đến
quyền tác giả tại Toà án nhân dân. Tuy nhiên, tất cả những văn bản pháp luật
này cũng chưa quy định rõ, đầy đủ các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cụ thể
nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trên cơ sở các quy định rải rác trong các văn bản pháp luật kể trên về thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và thực tế phát sinh, giải quyết các tranh chấp này, thẩm quyền
theo vụ việc có thể được xác định như sau:
Những tranh chấp về quyền tác giả thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án
- Tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức nhằm xác định tác giả, đồng tác giả,
chủ sở hữu tác phẩm;
- Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả không phải là chủ sở hữu tác phẩm và
chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của các chủ thể này;
- Tranh chấp về thừa kế quyền tác giả;
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sử dụng tác phẩm;
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả;
- Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc với tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn,
chú giải, tuyển chọn);
- Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với những người có quyền kề
cận (quyền liên quan đến quyền tác giả) là người biểu diễn, tổ chức sản xuất
băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
- Tranh chấp giữa những tổ chức, cá nhân có quyền liên quan đến quyền tác
giả, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ;
- Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả với những người có liên quan nhưng
không phải là tác giả, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác giả, người cung
cấp tài chính và phương tiện vật chất khác.
Tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án
- Tranh chấp nhằm xác định ai là tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp
đối tượng sở hữu công nghiệp;
- Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng khởi kiện cá nhân, tổ chức (trong đó
bao gồm cả chủ sở hữu các đối tượng này) xâm phạm quyền tác giả của mình;
- Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, giống cây trồng, tên thương mại, bí mật kinh doanh; người có quyền sử dụng
hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý có khởi kiện cá nhân, tổ chức
xâm phạm quyền sở hữu, quyền sử dụng của mình;
- Chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện người sử dụng trước
các đối tượng sở hữu công nghiệp này trong trường hợp người sử dụng trước
chuyển giao quyền sử dụng cho người khác hoặc mở rộng khối lượng, phạm vi so
với ngày công bố trong đơn;
- Cá nhân, tổ chức khởi kiện cá nhân, tổ chức khác cản trở, hạn chế quyền tự
do sáng tạo, quyền sở hữu các sản phẩm trí tuệ của mình;
- Tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng
đối tượng sở hưũ công nghiệp (còn gọi là hợp đồng li-xăng);
- Tranh chấp về hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp;
- Tranh chấp về quyền nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp (Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận);
- Tranh chấp về việc trả thù lao và các khoản phí khác giữa Cục sở hữu trí
tuệ và các chủ thể khác.
Rõ ràng, nếu so sánh với quy định của Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp năm 1989, pháp luật hiện hành đã giành cho Toà án thẩm quyền rộng
hơn rất nhiều trong việc xét xử các tranh chấp về quyền tác giả và
quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều
33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sở hữu trí tuệ của Toà án
được xác định như sau: 1.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần tuý là tranh chấp
dân sự, thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện; 2.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ
thuần tuý là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ
ở nước ngoài, thuộc quyền của Toà án cấp tỉnh; 3.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ
giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp
thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh.
2. Người có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sở
hữu trí tuệ
Bên cạnh vấn đề thẩm quyền, cần phải quy định rõ ai có quyền khởi kiện tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ trước Toà án theo thủ tụng tố tụng dân sự. Vấn đề
nguyên đơn trong vụ kiện về quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa được quy định trong
bất kỳ văn bản pháp luật nào. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định
“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ
án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan,
tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là
nguyên đơn”. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại khoản 1, Điều 59-Bộ
luật tố tụng dân sự.
Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền
khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà
án giải quyết.
Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu
đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như
sau:
Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền
khởi kiện:
- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
- Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
- Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;
- Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
- Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ
chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;
- Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác
phẩm;
- Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp
luật.
Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có
quyền khởi kiện:
- Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
- Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại,
bí mật kinh doanh.
- Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.
- Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.
- Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua
hợp đồng li-xăng.
- Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức
phát thanh, truyền hình.
- Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp
luật.
Khi xác định nguyên đơn trong trong chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cần
lưu ý: Đối với quyền tác giả, quyền khởi kiện yêu cầu bảo hộ quyền tác
giả phát sinh từ thời điểm cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo
đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Tức là, nếu một người có ý tưởng sáng
tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa thể hiện ý tưởng này
dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện yêu cầu
Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối với ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền của họ (trừ
các quyền nhân thân quy định tại điểm a, b, đ-khoản 1-Điều 751-Bộ luật dân sự),
việc khởi kiện chỉ được chấp nhận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn
đó là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Đối với quyền
sở hữu công nghiệp, nếu tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối
tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của
mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp
đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.
3. Chứng cứ
Khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cũng như đối với các vụ
án dân sự khác, “đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự
phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Điều 79-Bộ
luật tố tụng dân sự). Tuy nhiên, việc chứng minh trong vụ án về quyền sở hữu
trí tuệ thường khó khăn hơn rất nhiều so với các vụ án dân sự khác.
Theo quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp luật thừa
nhận chín nguồn chứng cứ mà đương sự được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ chứng
minh của mình. Ngoài quy định chung này trong Bộ luật tố tụng dân sự, không có
bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy định về chứng cứ trong quá trình giải
quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ[5].
Trong các loại chứng cứ được quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự,
các nguồn sau đây có thể được sử dụng khi giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ: các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai
của đương sự; lời khai của ngừoi làm chứng; kết luận giám định; kết quả định
giá tài sản. Tuỳ từng loại tranh chấp cụ thể mà chứng cứ được sử dụng khác
nhau, đương sự có thể đưa ra một hoặc một số loại chứng cứ.
Đối với tranh chấp về quyền tác giả, các tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được có giá trị là chứng cứ bao gồm:
- Giấy chứng nhận bản quyền tác giả do Cục bản quyền thuộc Bộ Văn hoá-thông
tin cấp. Giấy chứng nhận bản quyền tác giả là chứng cứ để chứng minh người có
tên trong Giấy này là tác giả của tác phẩm. Trong trường hợp đương sự không làm
thủ tục đăng ký tại Cục bản quyền tác giả, nếu muốn chứng minh là tác giả,
đương sự phải chứng minh mình đã sáng tạo ra tác phẩm và sự sáng tạo đó đã được
định hình dưới một hình thức vật chất;
- Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thể hiện dưới hình thức: bài
báo, sách, tạp chí, băng, đĩa âm thanh, băng, đĩa hình… có nội dung vi phạm tác
phẩm đã được bảo hộ;
- Hợp đồng thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong
trường hợp chứng minh cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu tác phẩm;
- Di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa
kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ thừa kế quyền tác giả;
- Hợp đồng sử dụng tác phẩm trong trường hợp giải quyết tranh chấp về hợp
đồng sử dụng tác phẩm;
- Hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả trong trường hợp giải quyết tranh chấp
về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả;
- Hợp đồng thuê biểu diễn nghệ thuật, hợp đồng tổ chức sản xuất chương trình
văn hoá, nghệ thuật; hợp đồng sản xuất, phát hành băng ghi âm, ghi hình; hợp
đồng trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình trong trường hợp giải quyết tranh
chấp phát sinh từ những quan hệ này;
- Hoá đơn thanh toán thù lao, nhuận bút trong trường hợp giải quyết tranh
chấp liên quan đến quyền hưởng các khoản này của tác giả.
Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, các tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được có giá trị là chứng cứ bao gồm:
- Văn bằng bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp được sử dụng để chứng minh
người có tên trong văn bằng là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công
nghiệp. Cụ thể là Bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá, Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch
tích hợp bán dẫn, Bằng bảo hộ giống cây trồng mới;
- Hợp đồng thuê sáng tạo; hợp đồng lao đồng và văn bản giao việc trong
trường hợp chứng minh là chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp trong trường
hợp chứng minh ai là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp;
- Di chúc hợp pháp, bản án, quyết định của Toà án về việc chia di sản thừa
kế trong trường hợp giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu công nghiệp;
- Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp, hợp đồng
li-xăng trong trường hợp giải quyết tranh chấp phát sinh từ những hợp đồng này;
- Hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp trong trường hợp giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này;
- Đơn và các giấy tờ khác chứng minh đã nộp đơn;
- Các hợp đồng, giấy tờ khác về việc mua bán, gửi giữ, quảng cáo, xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá/dịch vụ có gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ
trong trường hợp chứng minh hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;
- Các hoá đơn, chứng từ hợp lệ;
- Danh mục nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong trường hợp chứng minh nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại giống hoặc tương tự với nhãn hiệu hàng hoá nổi
tiếng.
Bên cạnh đó, một số vật chứng cũng có thể được sử dụng. Ví dụ:
Hàng hoá gắn đối tượng sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ; hàng hoá gắn đối
tượng sở hữu công nghiệp bị coi là vi phạm; các khoản thu lợi bất chính…
4. Giám định
Vấn đề giám định thường được đặt ra trong trường hợp đối tượng sở hữu trí
tuệ đang tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 – Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thoả thuận lựa
chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Kết
luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng. Tuy nhiên, Điều 67 – Bộ luật
tố tụng dân sự về người giám định chỉ quy định chung chung “Người giám định là
người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của lĩnh vực có đối tượng
cần giám định”. Cho đến nay, trong lĩnh vực sở hưũ trí tuệ, chưa có quy định cụ
thể cơ quan nào có thẩm quyền giám định, trình tự, thủ tục giám định ra sao.
Trong thực tế, thẩm quyền giám định đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc về Cục sở
hữu trí tuệ, trong khi đó đây lại là một cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu
công nghiệp.
Nên quy định một cơ quan độc lập có thẩm quyền giám định đối tượng sở hữu
trí tuệ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đối với quyền tác giả, đó là cơ
quan độc lập thuộc Bộ văn hoá-thông tin, còn đối với quyền sở hữu công nghiệp,
đó là cơ quan thuộc Bộ khoa học-công nghệ.
5. Xác định mức bồi thường
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học và tác giả, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp
cũng như các chủ thể có quyền liên quan khác được quyền khởi kiện yêu cầu Toà
án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp chấm dứt hành vi xâm phạm; yêu cầu người có hành vi
xâm phạm; và buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại. Tuy
nhiên, pháp luật Việt
Hiện nay, các Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết vấn đề bồi thường
thiệt hại cho nguyên đơn. Trong hầu hết các vụ việc, việc xác định mức bồi
thường cho nguyên đơn là không thoả đáng, bởi vậy không bảo vệ được lợi ích
chính đáng của họ. Về vấn đề này cần được xác định rõ trong Luật sở hữu trí tuệ
đang được xây dựng, hoặc hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao.
Theo chúng tôi, nên quy định: Thứ nhất, mức bồi thường được
xác định trên cơ sở tổn thất thực tế mà tác giả, chủ sở hữu, người có quyền sử dụng
hợp pháp đối tượng sở hữu trí tuệ phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Thứ hai, thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: tổn thất về tài sản, mức
giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt
hại, chi phí hợp lý để thuê luật sư, tổn thất về cơ hội kinh doanh. Thiệt hại
về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những
tổn thất khác về tinh thần.
6. Kết luận
Rõ ràng, cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự chưa cụ thể, chưa đầy đủ. Điều này gây khó khăn
cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và cho cả đương sự, làm cho hiệu quả thực
thi quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta không cao. Bởi vậy, việc hoàn thiện cơ sở
pháp lý cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung và giải quyết tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự nói riêng vô cùng cần
thiết.
Để bảo đảm giải quyết tốt hơn tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ
tụng tố tụng dân sự, cần phải quy định cụ thể hơn về các vấn đề: 1. Những tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; 2. Những
tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trước
Toà án; 3. Các chứng cứ đương sự được sử dụng trong quá trình chứng minh; 4. Cơ
quan có thẩm quyền giám định và trình tự, thủ tục giám định; 5. Nguyên tắc bồi
thường và xác định mức định bồi thường khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.
Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh
chấp quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, theo chúng tôi: không nên bổ
sung các quy định về những vấn đề được phân tích trên đây vào Bộ luật tố tụng
dân sự mà nên theo hướng quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật
tố tụng dân sự và đặc biệt là văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối
cao (bên cạnh đó, cũng nên quy định trong văn bản pháp luật nội dung là Luật sở
hữu trí tuệ). Bởi vì, Bộ luật tố tụng dân sự là cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự. Bộ luật chỉ quy định chung về nguyên tắc,
trình tự, thủ tục, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự mà không quy định cụ thể cho từng vụ án, việc dân sự.
Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định pháp luật, cần thiết phải nâng
cao trình độ của các thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Điều
này góp phần nâng cao quả giải quyết tranh chấp và làm tăng độ tin cậy của các
đương sự trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ./.
[1] Để bảo vệ quyền tác giả, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai tội: tội
xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) và tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát
hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn
phẩm khác (Điều 271). Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Bộ luật hình sự năm 1999
quy định các tội: 1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
(Điều 157); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân
bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158); Tội
lừa dối khách hàng (Điều 162); Tội xâm phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(Điều 171).
[2] Xem khoản 3-Điều 9; khoản 2-Điều 14; khoản 2 và khoản 3-Điều 28 của Pháp
lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989.
[3] Nghị định 76-CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số
quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự, Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996
của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp chỉ quy định
4. Xem Điều 759– Bộ luật dân sự; điểm c-khoản 1, Điều 796– Bộ luật dân sự;
điểm c-khoản 1-Điều 800–Bộ luật dân sự; Điều 7- Nghị định 76/CP; Điều 54-Nghị
định 63/CP.
5. Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định về chứng cứ mà đương sự có
quyền sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, đây vẫn là quy định sơ sài.O
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ ĐẶC SAN VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Theo thông tin pháp luật dân sự