VCCI_Tổng hợp ý kiến rà soát về Luật Phá sản

Thứ Bảy 00:52 09-05-2020

Kính gửi: Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao

Trả lời Công văn số 43/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc rà soát và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Luật Phá sản, đồng thời có những kiến nghị, đề xuất phương án hoàn thiện đối với các quy định bất cập, vướng mắc của Luật Phá sản, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổng hợp gửi các ý kiến của doanh nghiệp như sau:

Luật Phá sản năm 2014 được ban hành và phát sinh hiệu lực đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý minh bạch cho các doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và con nợ. Luật Phá sản năm 2014 có nhiều bước đột phá, khắc phục nhiều điểm bất cập, vướng mắc của Luật Phá sản trước đó và được đánh giá là có nhiều điểm tiến bộ.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực trên, trong quá trình thực tiễn thi hành, doanh nghiệp đã phản ánh một số vướng mắc sau khi áp dụng Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn, đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét:

  1. Căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản thì “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Quy định này được hiểu, căn cứ để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản dựa vào khoảng thời gian không thanh toán được khoản nợ đến hạn.

Căn cứ này vẫn chưa rõ ràng và chính xác để xác định một doanh nghiệp, hợp tác xã thực sự lâm vào tình trạng “mất khả năng thanh toán” và khó để phân biệt với tình huống “không chịu thanh toán”. Thực tế, có nhiều doanh nghiệp có đầy đủ khả năng thanh toán nhưng do nhiều nguyên nhân không chịu thanh toán hoặc không thể thanh toán tại thời điểm bị đòi nợ (do chưa thu hồi được nợ, …). Căn cứ này có khả năng trở thành “công cụ” để cho các đối tác “đòi nợ” lẫn nhau. Điều này có thể dẫn tới hậu quả là doanh nghiệp bị đòi nợ bị thiệt hại về uy tín và thiệt hại trên thực tế.

Tại thời điểm xây dựng Dự thảo Luật Phá sản, đây là một trong những điểm nhận được nhiều ý kiến tranh luận về căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đề nghị tổng kết lại tình hình thực hiện Luật Phá sản về vấn đề này để xây dựng quy định về căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phù hợp và hạn chế được tình trạng nêu ở trên.

  1. Thông báo mất khả năng thanh toán

Khoản 1 Điều 6 Luật Phá sản quy định “cá nhân, cơ quan, tổ chức khi phát hiện doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản quy định tại Điều 5 của Luật này”.

Quy định này áp dụng đối với các tổ chức tín dụng là chưa phù hợp, vì theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hạng tại tổ chức tín dụng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. Như vậy, các tổ chức tín dụng nếu biết được tình trạng mất khả năng thanh toán của khách hàng cũng không thể thông báo cho những người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản.

Đề nghị điều chỉnh lại quy định này để phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng.

  1. Về việc mở tài khoản ngân hàng của Tòa án

Theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 16 Luật Phá sản thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm “gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng”. Quy định này chưa đủ rõ ràng về chủ tài khoản, cách thức mở tài khoản, vì vậy trên thực tế không áp dụng thống nhất. Cụ thể:

  • Tòa án chỉ mở một tài khoản ngân hàng cho tất cả các vụ phá sản do Chánh án tòa án nhân dân cấp đó làm chủ tài khoản;
  • Tòa án mở tài khoản ngân hàng cho mỗi vụ phá sản và do hoặc là Chánh án làm chủ tài khoản hoặc là thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc làm chủ tài khoản.

Đề nghị bổ sung quy định chi tiết về việc mở tài khoản ngân hàng của Tòa án khi giải quyết phá sản.

  1. Về nộp Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã

Điểm a khoản 3 Điều 28 Luật Phá sản quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nộp Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải gửi “báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã trong 03 năm gần nhất”.

Quy định này chưa quy định rõ là báo cáo tài chính có phải được kiểm toán hay không. Trong thực tế giải quyết án phá sản, báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng, có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Thông qua báo cáo tài chính, thẩm phán có thể nắm bắt được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản. Do đó, báo cáo này cần tính chính xác, trung thực.

Vì vậy, đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán.

  1. Về tạm ứng chi phí phá sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Phá sản thì Tòa án sẽ dự tính số tiền tạm ứng chi phí phá sản và thông bá cho người yêu cầu mở thủ tục phá sản để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản.

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về việc xác định tạm ứng chi phí phá sản do đó việc xác định số tiền này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Đề nghị ban hành văn bản quy định về việc xác định số tiền tạm ứng chi phí phá sản.

  1. Về việc chỉ định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Điều 45 Luật Phá sản quy định sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán sẽ chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối tham gia vụ việc phá sản. Tuy nhiên, pháp luật về phá sản lại không có quy định, trong trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối tham gia thì bước tiếp theo là gì? Thẩm phán chỉ định người mới như thế nào? Đề nghị bổ sung quy định này.

  1. Về quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm

Điều 53 Luật Phá sản quy định, khoản nợ có bảo đảm sẽ được xử lý trừ trường hợp “tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ”. Như vậy, tài sản bảo đảm sẽ phải chờ đến khi Hội nghị chủ nợ có quyết định sử dụng tài sản này để phục hồi kinh doanh hay không. Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:

Theo quy định của Luật Phá sản, để tổ chức Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi kinh doanh phải trải qua rất nhiều giai đoạn (tập hợp danh sách chủ nợ, con nợ; kiểm kê tài sản; Hội nghị chủ nợ lần 1, lập phương án phục hồi kinh doanh). Trường hợp phương án phục hồi kinh doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì “phải được chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản đó đồng ý” (khoản 5 Điều 91 Luật Phá sản). Nếu chủ nợ có bảo đảm không đồng ý thì tài sản đảm bảo sẽ được xử lý như thế nào? Luật Phá sản chỉ quy định việc xử lý tài sản đảm bảo cho “trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy” mà chưa quy định việc xử lý cho trường hợp trên.

Nếu trong trường hợp này, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý tương tự như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 53 Luật Phá sản, có nghĩa quy định xử lý tài sản bảo đảm sẽ được tách riêng so với việc giải quyết các khoản nợ khác của vụ việc phá sản. Tuy nhiên, quy định tại Luật Phá sản khiến cho quy trình này trở nên kéo dài và ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Bởi vì, phần lớn trường hợp, chủ nợ có tài sản bảo đảm sẽ không đồng ý cho sử dụng tài sản có bảo đảm vào phương án phục phồi kinh doanh – một phương án mà quyền quyết định thuộc về chủ nợ đại diện cho 65% tổng số nợ không có bảo đảm, và rủi ro rất lớn là họ sẽ mất tài sản bảo đảm nếu doanh nghiệp không thể phục hồi kinh doanh. Vì tính chất này, Luật Phá sản quy định theo hướng, bắt các chủ nợ này phải “chờ đợi” một khoảng thời gian rất dài mới được quyền xử lý tài sản bảo đảm dường như chưa thật hợp lý.

Đề nghị bổ sung quy định về trường hợp tách khoản nợ có tài sản bảo đảm để xử lý ngay và việc thi hành quyết định xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp đã tách khoản nợ, đồng thời bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 53 Luật Phá sản.

  1. Về vấn đề đòi nợ của chủ nợ

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Phá sản thì trường hợp các vụ việc bị đình chỉ giải quyết do Tòa án mở thủ tục phá sản, Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản phải xem xét, quyết định nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải thực hiện và “người được doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản có quyền yêu cầu được thanh toán trong khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã như một chủ nợ”.

Quy định này là chưa rõ ở điểm: trong trường hợp này người được doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện nghĩa vụ về tài sản có phải gửi giấy đòi nợ không hay là Tòa án sẽ chủ động ghi tên những người này vào danh sách chủ nợ? Đề nghị quy định rõ vấn đề này để đảm bảo thống nhất thực hiện.

  1. Về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm của bên thứ ba

Luật Phá sản chưa quy định rõ ràng trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm của bên thứ ba trong giải quyết vụ phá sản, cụ thể:

Trường hợp cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành án đối với bên phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, trong đó bản án/quyết định của Tòa án lại tuyên xử lý tài sản của bên thứ ba để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi Tòa án quyết định mở thủ tục phá sản, trên thực tế cơ quan thi hành án sẽ ra quyết định đình chỉ việc thi hành án và chuyển giao hồ sơ cho Tòa án.

Trong trường hợp này, việc xử lý tài sản đảm bảo của bên thứ ba không ảnh hưởng đến việc giải quyết thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã, vì không phải là tài sản của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc đình chỉ thi hành án lại tác động đến quyền lợi của của bên nhận bảo đảm. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định tại Luật Phá sản quy định rõ về cách thức xử lý tài sản bảo đảm của bên thứ ba, theo hướng không đình chỉ xử lý việc thi hành án trên.

  1. Về xử lý khoản nợ có bảo đảm

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 53 Luật Phá sản thì “đối với khoản nợ có bảo đảm được xác định trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó”.

Trên thực tế, có trường hợp bên nhận bảo đảm không nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ mà yêu cầu bán đấu giá tài sản này và lấy tiền từ bán đấu giá để trả nợ. Luật Phá sản không quy định để giải quyết cho tình huống này, vì vậy gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Đề nghị bổ sung quy định cụ thể về trường hợp này.

  1. Về thời hạn ra quyết định thi hành án

Khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn ra quyết định thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định.

Khoản 1 Điều 120 Luật Phá sản quy định “trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quant hi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành án”.

Như vậy, thời hạn ra quyết định thi hành án chưa thống nhất giữa Luật Thi hành án dân sự và Luật Phá sản, đề nghị điều chỉnh lại để đảm bảo tính nhất quán.

  1. Về chi phí của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Khoản 1, 2 Điều 63 Luật Phá sản quy định, sau khi Tòa án có quyết định mở thủ tục phá sản, chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được thực hiện nghĩa vụ bù trừ nghĩa vụ đối với hợp đồng được xác lập trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Việc thực hiện bù trừ phải được sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Như vậy, liên quan đến hoạt động bù trừ nghĩa vụ, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ tham gia vào và phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế, sau khi hoạt động bù trừ này diễn ra thì doanh nghiệp không còn tài sản, trong khi đó chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản lại được lấy từ giá trị tài sản của doanh nghiệp sau khi thanh lý. Như vậy, trường hợp này thì chi phí cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ được lấy từ đâu và giải quyết như thế nào? Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định để giải quyết trường hợp này.

Góp ý tương tự cho trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 53 Luật Phá sản, sau khi xử lý tài sản bảo đảm, doanh nghiệp không còn tài sản thì trường hợp này chi phí cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ được tính như thế nào và do ai chi trả?

  1. Về kiểm kê tài sản

Theo quy định tại Luật Phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 65).

Trên thực tế, việc kiểm kê tài sản gặp rất nhiều khó khăn vì người đại diện của doanh nghiệp vắng mặt, người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định thường là không chịu làm, hoặc không biết về tình hình công ty nên thực hiện việc này rất khó khăn. Mặc dù, pháp luật có quy định về chế tài xử lý đối với việc không hợp tác về việc kiểm kê tài sản (xử phạt vi phạm hành chính) tuy nhiên chế tài này cũng không hiệu quả và khả thi.

Đề nghị nghiên cứu và quy định có tính khả thi hơn để giải quyết đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác không còn người có trách nhiệm tiến hành các công việc kiểm kê tài sản, cung cấp giao nộp thông tin hồ sơ kế toán tài sản.

  1. Về trường hợp định giá lại tài sản

Theo quy định của Luật thi hành án dân sự thì việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp (khoản 1 Điều 99):

  • Chấp hành viên có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 98 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản;
  • Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản

Trong khi đó, pháp luật về phá sản quy định “việc định giá lại tài sản được thực hiện khi có vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 122 của Luật này dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản” (khoản 1 Điều 123 Luật Phá sản), nếu phát hiện Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về phá sản, pháp luật về định giá tài sản dẫn đến sai lệch kết quả định giá tài sản, Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc định giá lại tài sản, trừ trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đó bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định 22/2015/NĐ-CP (khoản 2 Điều 17 Nghị định 22/2015/NĐ-CP).

Như vậy, so với Luật thi hành án dân sự quy định tại Luật Phá sản đã thu hẹp lại trường hợp định giá lại tài sản (đương sự không được quyền yêu cầu định giá lại tái sản trước khi có thông báo công khai về đấu giá tài sản). Điều này ảnh hưởng đáng kể đến quyền lợi của các chủ nợ.

Để đảm bảo tính thống nhất và quyền lợi hợp pháp của các chủ nợ, đề nghị sửa đổi Luật Phá sản theo hướng tương thích với Luật thi hành án dân sự.

  1. Về bán đấu giá tài sản

Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định tại Điểm d khoản 1 Điều này (Điểm d khoản 1 Điều này quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản báo cáo Chấp hành viên trong các trường hợp bán đấu giá tài sản không thành), Chấp hành viên quyết định việc thanh lý tài sản”.

Tuy nhiên, Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không quy định rõ khi thực hiện quyết định việc thanh lý tài sản thì Chấp hành viên làm thủ tục gì (ra quyết định giảm giá hay quyết định việc tiếp tục bán tài sản …) dẫn đến khó khăn trong việc có tiếp tục bán đấu giá tài sản. Đề nghị bổ sung quy định chi tiết vấn đề này.

  1. Về trình tự thủ tục khi Chấp hành viên thực hiện việc thanh lý tài sản

Khoản 4 Điều 121 Luật Phá sản 2014 quy định: Tài sản mà Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được việc thanh lý sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên theo quy định tại khoản 2 Điều này thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải chấm dứt việc thanh lý tài sản và bàn giao toàn bộ giấy tờ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật.

Theo quy định trên, sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản của Chấp hành viên yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản mà tài sản chưa được thanh lý thì việc thanh lý tài sản được giao trở lại cho Chấp hành viên.

Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014 chỉ quy định là cơ quan thi hành án dân sự xử lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật. Quy định này là chưa đủ rõ ràng dẫn đến cơ quan thi hành án dân sự gặp khó khăn trong việc tổ chức thi hành, cụ thể: trong trường hợp này Chấp hành viên áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản hay pháp luật về thi hành án để tiếp tục tổ chức việc thanh lý tài sản? Chấp hành viên khi thực hiện việc thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì có phải thực hiện việc ra quyết định kê biên theo quy định của Luật Thi hành án dân sự hay chỉ tiến hành định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật Phá sản? Đề nghị quy định rõ để đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện.

  1. Về chi phí thực hiện phá sản

Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bao gồm thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và chi phí khác.

Nghị định 22/2015/NĐ-CP mới chỉ quy định chi phí thực hiện phá sản trong trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện còn trong trường hợp Chấp hành viên thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được tài sản (theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản) và thực hiện việc thanh lý tài sản (theo quy định khoản 4 Điều 121 Luật Phá sản) lại chưa quy định rõ ai là người phải chi trả những chi phí trên.

Theo quy định tại Điều 73 Luật Thi hành án dân sự quy định về chi phí cưỡng chế đã quy định rõ các trường hợp mà người phải thi hành án, người được thi hành án, ngân sách phải thanh toán. Tuy nhiên, đối với trường hợp thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì không có người phải thi hành án, do đó, các chi phí khi Chấp hành viên thực hiện các công việc trên có được được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán hay không? Đề nghị bổ sung quy định về vấn đề này để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện.

  1. Về loại hình của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

Theo quy định tại Điều 13 Luật Phá sản thì doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ được tổ chức dưới hai loại hình là công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Lý do, suy đoán là vì đây là ngành nghề đề cao vai trò và trách nhiệm của cá nhân thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản vì vậy các loại hình doanh nghiệp này nâng cao tính trách nhiệm cá nhân thực hiện.

Trong hệ thống pháp luật về kinh doanh, có một số ngành nghề cũng có tính chất đề cao trách nhiệm của cá nhân khi thực hiện như dịch vụ kế toán, kiểm toán, luật sư, tuy nhiên đối với các ngành nghề này doanh nghiệp có thể được thành lập ở loại hình công ty trách nhiêm hữu hạn, trong đó ràng buộc điều kiện đối với các thành viên góp vốn.

Vì vậy, đề nghị xem xét, cân nhắc mở rộng loại hình được phép tổ chức thành lập và hoạt động của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay vì chỉ được thành lập theo hai loại hình theo luật hiện hành.

Trên đây là một số ý kiến tổng hợp ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với việc rà soát và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Luật Phá sản, đồng thời có những kiến nghị, đề xuất phương án hoàn thiện đối với các quy định bất cập, vướng mắc của Luật Phá sản. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.