Ý kiến tổng hợp của VCCI gửi tới Văn phòng Chính phủ và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

Thứ Sáu 16:32 03-07-2009

Trong khuôn khổ các hoạt động góp ý xây dựng pháp luật, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và các tổ chức hữu quan tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước và dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng vào ngày 29 tháng 06 năm 2009. VCCI gửi tới Quý Cơ quan bản tổng hợp các nội dung góp ý đối với hai Dự thảo này như sau:

I. QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN

Theo các quy định hiện hành, các Dự thảo khi xây dựng và ban hành phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc sau:

(i) Đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và thông lệ quốc tế;

(ii) Đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của các quy định;

(iii) Đảm bảo hoạt động có hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, đồng thời phải đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp;

(iv) Đảm bảo tính hợp lý, khả thi và hiệu quả trong quá trình thực thi.

Các đại biểu ghi nhận có những tiến bộ nhất định so với các dự thảo trước đó về hai luật này, tuy nhiên, các nội dung trong hai Dự thảo hiện tại vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu trên, cụ thể[1]:

II. DỰ THẢO LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1. Về tính rõ ràng minh bạch của các quy định

Hầu hết các ý kiến góp ý đều cho rằng rất nhiều các quy định của Dự thảo luật này chưa đảm bảo được tính rõ ràng, minh bạch, cụ thể:

1.1 Nhiều thuật ngữ chưa được quy định rõ ràng

Nhiều thuật ngữ, trong đó là những thuật ngữ quan trọng chưa được quy định hoặc định nghĩa rõ ràng trong Điều 4 và một số Điều khác trong Dự thảo, như các thuật ngữ về: các tổ chức tín dụng; hoạt động ngân hàng; nhận tiền gửi; cung ứng thanh toán; uỷ thác, uỷ thác vốn, uỷ thác đầu tư; chi phối….

1.2 Một số quy định chưa được đưa vào hoặc không được quy định cụ thể

- Nội dung “đảo nợ” không được đưa vào Dự thảo. Vậy ”đảo nợ” sẽ bị cấm trong Dự thảo này hoặc là hoạt động có điều kiện?

- Giấy phép đã cấp cho các ngân hàng có dịch vụ cầm đồ (theo quy định của Luật các TCTD hiện hành), nhưng Luật mới đã bỏ khái niệm này, vậy thì các ngân hàng được cấp phép sau này sẽ không được làm dịch vụ cầm đồ hay sẽ được hiểu suy diễn là làm theo hình thức hoạt động khác?

- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của TCTD không được quy định cụ thể (nội dung quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 130 - Tỷ lệ bảo đảm an toàn). Trong khi đó, điểm e, khoản 3, Điều 146 (Áp dụng kiểm soát đặc biệt) lại quy định một trong những trường hợp TCTD bị (được) kiểm soát đặc biệt là: “Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu do NHNN quy định trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu thấp hơn 4% trong thời hạn 6 tháng liên tục.”.

- Chưa rõ về việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động:

o Dự luật quy định rất nhiều hồ sơ, thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, tuy nhiên hầu hết chỉ là định tính, không có định lượng, chưa thể hiện được thực chất của vấn đề, tức là Luật chỉ mang tính nguyên tắc hình thức. Nếu cứ theo Luật thì không thể hình dung điều kiện cấp phép là gì, vì không có tiêu chí rõ ràng, không xác định được giá trị thực của Giấy phép. Một trong những nguyên nhân cơ bản là phạm vi điều chỉnh của Luật quá rộng, về toàn bộ tổ chức và hoạt động của tất cả các loại hình TCTD, từ cấp giấy phép thành lập cho đến giải thể, phá sản; trong khi hợp lý ra, chỉ về loại hình Ngân hàng thương mại cũng cần phải có một đạo luật, thậm chí một bộ luật riêng;

o Với các điều quy định về vốn pháp định (Điều 19); Điều kiện cấp Giấy phép (Điều 20); Hồ sơ, trình tự, thủ tục đề nghị cấp Giấy phép (Điều 21), thì hoàn toàn mới chỉ giải quyết được một khâu là cho phép thành lập TCTD, chưa thể nào hoạt động được;

o TCTD muốn đi vào hoạt động còn phải đáp ứng được một loạt các điều kiện khác như Đăng ký kinh doanh (Điều 24); đủ ít nhất là 10 nhóm Điều kiện khai trương hoạt động (Điều 26) gồm: Có Điều lệ; có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; có đủ vốn điều lệ; có kho tiền; có trụ sở; có cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành, kiểm toán, kiểm soát, quản lý rủi ro; có hệ thống công nghệ thông tin; có các quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, hoạt động, quản lý rủi ro; quản lý mạng lưới; đã gửi đầy đủ vốn vào tài khoản phong tỏa; đã thực hiện việc đăng báo.

o Như vậy sau khi được phép thành lập, TCTD sẽ phải trải qua các điều kiện, thủ tục xem xét cho phép của NHNN thì mới được hoạt động. Đó là những loại “giấy phép” không thể thiếu. Đề nghị xây dựng quy trình cấp phép và hoạt động này ra làm hai quy trình, quy trình cấp Giấy phép thành lập và quy trình cấp Giấy phép hoạt động (hoặc giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động). Việc phân tách như thế này sẽ đảm bảo tính rõ ràng và hợp lý hơn.

2. Chưa đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật

Một số quy định của Dự thảo chưa có sự phân định rạch ròi với Bộ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp và một số luật khác:

- Dự thảo không quy định điều kiện để trở thành cổ đông sáng lập ngân hàng, liệu các quy định của Luật doanh nghiệp sẽ được áp dụng?;

- Dự thảo không đưa ra các quy định đặc thù về hợp đồng tín dụng, như vậy, hợp đồng tín dụng sẽ được thực hiện theo quy định chung của Bộ luật Dân sự về cho vay hay phải có thêm những điều kiện đặc thù khác nữa?. Ví dụ trước đây, mục đích cho vay là một trong những điều kiện bắt buộc theo Luật các TCTD hiện hành, thì Dự luật đã không còn đề cập đến và cũng không giao cho NHNN quy định cụ thể;

- Luật mới không quy định về việc phát hành trái phiếu (trừ trái phiếu chuyển đổi), vậy các TCTD có được phát hành trái phiếu theo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán hay không?

- Không rõ TCTD có được phát hành trái phiếu thông thường như lâu nay vẫn làm hay không, vì Dự luật chỉ nhắc đến thẩm quyền thông qua việc phát hành trái phiếu chuyển đổi (Điều 59, Điều 63) và được “phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài theo quy định của NHNN” (khoản 2, Điều 98 - Hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại; Điều 92 - Phát hành giấy tờ có giá của TCTD). Trong khi Luật các TCTD hiện hành và Luật Doanh nghiệp quy định rõ về việc TCTD được phép phát hành trái phiếu.

- Về lãi suất trong hoạt động ngân hàng (Điều 91 Dự thảo Luật): Việc Dự thảo bổ sung quy định “TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất” là hợp lý. Tuy nhiên, quy định này chưa “toát” được nguyên tắc “cởi trói” theo hướng khẳng định quyền thỏa thuận này không bị ràng buộc bởi quy định cứng 150% tại khoản 1 Điều 476 của BLDS (“Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”), do đó, cần được quy định rõ.

- Về nguyên tắc, những gì là quy định đặc thù cần được quy định cụ thể trong Dự thảo để đảm bảo tính khả thi, ví dụ: cần quy định về điều kiện, thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông của TCTD cổ phần, bởi nếu không quy định thì vấn đề này sẽ được áp dụng theo quy định của Luật Doanh nghiệp (căn cứ vào quy định về nguyên tắc áp dụng Luật tại Điều 2), theo đó, sẽ phát sinh một số vướng mắc xuất phát từ những điểm đặc thủ của TCTD so với loại hình doanh nghiệp khác. Đơn cử như, việc áp dụng quy định tại Điều 100 của Luật Doanh nghiệp: việc mời họp Đại hội đồng cổ đông thì thông báo họp phải được “gửi bằng phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của cổ đông” cho “tất cả cổ đông có quyền dự họp” sẽ gây khó khăn và tốn kém cho các TCTD có số lượng cổ đông lớn. Ví dụ, Ngân hàng với 60.000 cổ đông, thì việc bắt buộc phải gửi thư bảo đảm đến 60.000 cổ đông và với chi phí khoảng 10.000 đồng/1 thư bảo đảm, thì tổng chi phí cho việc thông báo là rất lớn, trong đó chưa kể các khó khăn về thời gian, thủ tục, công sức và chi phí khác,… Trong lúc đó dự thảo Luật Các TCTD có thể giải quyết tốt hơn vấn đề này thông qua quy định về các phương thức thông báo khác như trên Website của TCTD, trên các phương tiên thông tin đại chúng, qua email,….

3. Về tính hợp lý, khả thi và hiệu quả của các quy định

Các nội dung thảo luận về tính hợp lý, khả thi và hiệu quả của Dự thảo tập trung ở sáu điểm sau:

3.1 Về phạm vi được phép hoạt động của TCTD

Dự thảo chưa quy định rõ ràng, thiếu tính hợp lý, khả thi và hiệu quả về phạm vi được phép hoạt động của TCTD:

- Khoản 2, Điều 90 (Phạm vi hoạt động được phép của TCTD) quy định: “TCTD không được phép tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác quy định trong Giấy phép do NHNN cấp cho TCTD”. Như vậy, quy định này phát sinh ra hai hệ quả.

o Thứ nhất, các hoạt động của TCTD trong quá trình hoạt động phải hoàn toàn đúng theo các nội dung hoạt động được ghi trong giấy phép. Đây là quy định khá chặt chẽ và cứng nhắc. Quy định quá cứng này sẽ nảy sinh nhiều vướng mắc, nhất là sau khi Việt Nam hoàn toàn phát triển theo kinh tế thị trường. Các hoạt động của TCTD khá đa dạng và đáp ứng nhu cầu của thị trường, khó có thể ghi trong Giấy phép đầy đủ, cụ thể, chi tiết các hoạt động của TCTD.

o Thứ hai, các TCTD phải xin sửa đổi, bổ sung Giấy phép để giải quyết những việc sự vụ theo đòi hỏi kinh doanh hàng ngày của mình. Quy trình này sẽ gây ra khó khăn, thời gian và tốn kém cho các TCTD. Và tất nhiên là khó tránh khỏi cơ chế xin cho không cần thiết trên thực tế.

- Do vậy, cần đưa ra một giải pháp mới, không quy định TCTD được làm tất cả hay chỉ được làm những gì đã được ghi trong Giấy phép, mà cần quy định theo hướng: TCTD được thực hiện các hoạt động kinh doanh đã được pháp luật cho phép hoặc không cấm và phải được sự cho phép của NHNN trong trường hợp có quy định của pháp luật. Theo đó, nội dung Giấy phép cũng không nên đưa cụ thể tất cả các nội dung được phép hoạt động như hiện nay (vừa thừa, vừa thiếu),[1] mà chỉ nêu ra các đề mục lớn ví dụ như: “Hoạt động ngân hàng”, “thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật”. Còn hoạt động ngân hàng cụ thể như thế nào và được làm những gì, thì đã có quy định của Luật các TCTD, các Nghị định, Thông tư, cũng như các Giấy phép “con”.

3.2 Về mức lệ phí cấp phép (Điều 23)

Mức quy định “lệ phí cấp Giấy phép bằng 1% vốn điều lệ hoặc vốn được cấp” là quá cao và có thể nói là mức lệ phí cao nhất hiện nay. Ví dụ, nếu một nhà đầu tư muốn xin cấp phép thành lập TCTD với mức vốn điều lệ là 3 nghìn tỉ, nếu theo quy định của Dự thảo thì mức lệ phí sẽ là 30 tỉ.

Do đó, đề nghị xem xét giảm để phù hợp với mục tiệu cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước, hiệu quả phục vụ môi trường kinh doanh, đầu tư....

3.3 Về thời hạn cấp phép (Điều 22)

Quy định về thời hạn là “360 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định”, là quá dài, vì vậy đề nghị rà soát lại các thủ tục để rút ngắn tối đa thời hạn theo một trong các cách thức sau:

- PA1: Quy định về các trường hơp phải thực hiện trong thời hạn ngắn hơn (ví dụ 100 ngày) và trong một số trường hợp (các trường hợp này phải được cụ thể hóa) thì có thể kéo dài nhưng không quá bao nhiêu ngày (ví dụ 180 ngày)[2].

- PA2: Rút ngắn thời hạn cấp Giấy phép so với thời hạn trong Dự thảo.

3.4 Về giới hạn cấp tín dụng của ngân hàng và chi nhánh

Theo qui định tại mục 1, điều 128 của dự thảo Luật các tổ chức tín dụng thì tổng mức dư nợ cấp tín dụng của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng sẽ bị thay đổi. Theo qui định hiện hành thì tổng mức dư nợ này không được vượt quá 15% vốn tự có có của ngân hàng mẹ, nhưng theo dự thảo thì tổng mức dư nợ này không được vượt quá 15% vốn tự có của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đề nghị Ban soạn thảo duy trì các qui định hiện hành về cách tính tổng mức dư nợ cấp tín dụng, nghĩa là không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng mẹ.

Nếu dự thảo Luật vẫn bị thay đổi như đã nêu trên, thì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ phải đứng trước hai lựa chọn: hoặc phải giảm tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với khách hàng, hoặc phải tăng thêm vốn tự có của chi nhánh để duy trì tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với khách hàng như hiện tại.

Trong trường hợp không thể tăng thêm vốn tự có, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ phải cắt giảm rất nhiều tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với khách hàng, và sẽ rất khó khăn trong việc cung cấp hạn mức tín dụng mới cho khách hàng ở một mức nhất định. Điều này sẽ đưa đến những ảnh hưởng tiêu cực tới quyết định đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài.

3.5 Về chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm (Điều 51)

Tại khoản 1, Điều 51 quy định : “Danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên HĐQT, HĐTV, thành viên BKS, TGĐ (GĐ) của TCTD phải được NHNN chấp thuận trước khi bầu, bổ nhiệm các chức danh này. Những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên HĐQT, HĐTV, thành viên BKS, TGĐ (GĐ) của TCTD phải thuộc danh sách đã được NHNN chấp thuận”. Chúng tôi cho rằng, quy định này chưa hợp lý vì một số lý do sau:

- Trực tiếp “hành chính hóa công tác tổ chức, quản trị doanh nghiệp”, mang nặng cơ chế “xin – cho” và can thiệp quá sâu sâu vào công tác tổ chức của TCTD, đặc biệt là các TCTD “ngoài quốc doanh”;

- Nếu cần có sự “can thiệp” của NHNN vì lý do “quản lý theo tiêu chuẩn” nào đó, thì việc quản lý này thể hiện ở việc quy định cụ thể, rõ ràng trong Dự thảo về tiêu chuẩn, điều kiện để được bầu, bổ nhiệm, cũng như thủ tục bãi miễn đối với từng chức danh, chứ không phải thông qua quy định bất hợp lý như trên;

- Điều 29 của Dự thảo đã bỏ quy định về việc phải được sự chấp thuận của NHNN trong trường hợp thay đổi “Thành viên HĐQT, TGĐ (GĐ) và thành viên BKS” tại điểm g, khoản 1 Điều 31 của Luật Các TCTD hiện hành. Qua đó đã khắc phục được khó khăn, vướng mắc trong thực tế, đặc biệt là thể hiện quan điểm cải cách trong công tác quản lý và tôn trọng quyền tổ chức, quản trị nội bộ của TCTD. Từ đó, việc tồn tại các quy định chưa phù hợp với “quan điểm” như đã được “thể hiện” tại Điều 27, trong đó có quy định tại khoản 1, Điều 51 cần phải được sửa, bỏ để đảm bảo tính thống nhất, hợp lý và thực thi.

3.6 Để đảm bảo tính hợp lý Dự thảo cần đưa một số quy định khác vào

a. Vấn đề có đưa hay không đưa mô hình Tập đoàn Tài chính – Ngân hàng vào trong Dự thảo luật?

Nên phải đưa vào Dự thảo luật mô hình này vì các lý do sau:

- Về mặt lý luận: Cũng như các thực thể kinh tế bất kỳ trong nền kinh tế, nhu cầu phát triển (nội sinh/ngoại sinh thông qua M&A) để trở thành tập đoàn là nhu cầu tự nhiên. Việc các Ngân hàng phát triển thành hệ thống lớn mạnh, thôn tính, góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp khác, các ngân hàng khác cũng là nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh, mở rộng đầu tư của Ngân hàng. Vì vậy, kể cả không đưa vào trong Dự thảo Luật các quy định về mô hình Tập đoàn tài chính ngân hàng thì việc phát triển thành tập đoàn cũng sẽ diễn ra với việc đầu tư, góp vốn vào các lĩnh vực tài chính và phi tài chính khác để thành lập các công ty con, công ty trực thuộc, tham gia góp vốn vào các Ngân hàng, định chế tài chính khác như tài chính, chứng khoán, bảo hiểm.

- Về mặt thực tiễn phát triển: Xu hướng của các định chế tài chính, ngân hàng là phát triển thành tập đoàn để không chỉ đối phó với việc cạnh tranh trên thị trường trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp của VN nói chung, Ngân hàng nói riêng phải phát triển phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển trên thế giới.

- Về mặt pháp lý: Luật Doanh nghiệp 2005 là luật gốc cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động, một khi Luật doanh nghiệp đã quy định cụ thể vấn đề tập đoàn kinh tế, nhóm công ty thì việc đưa vào khái niệm Tập đoàn tài chính – Ngân hàng là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được sự phát triển của ngành ngân hàng, sự lớn mạnh và tính cạnh tranh của Ngân hàng trong nước trước trước các Tập đoàn tài chính – Ngân hàng trên thế giới đã và đang kinh doanh trên thị trường Việt Nam và khu vực.

b. Nên đưa quy định “hoạt động ngân hàng của tổ chức khác” vào trong Dự thảo luật?

Nên đưa khái niệm “hoạt động ngân hàng của tổ chức khác” vào trong Dự thảo vì các lý do sau:

Trong những năm sắp tới, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ chứng kiến sự gia tăng về số lượng các sản phẩm ngân hàng liên kết bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông, điện tử….do đó, sự tham gia của các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng để cung cấp các sản phẩm này. Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng liên kết như dịch vụ liên kết thẻ, dịch vụ quản lý tài sản cá nhân, dịch vụ tiết kiệm bưu điện, liên kết kênh thanh toán trực tuyến, các sản phẩm internetbanking, mobile banking….sẽ ngày càng trở lên đa dạng, đòi hỏi phải có sự liên doanh, liên kết hoặc đầu tư từ bên ngoài tổ chức tín dụng. Vì bản thân tổ chức tín dụng mà đầu tư 100% cho các sản phẩm dịch vụ này là điều khó khả thi khi các tổ chức tín dụng hoàn toàn lựa chọn, cân nhắc việc hợp tác với các tổ chức, cá nhân có đủ các điều kiện. Do đó vấn đề là Ngân hàng Nhà nước phải tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức này có thể tham gia một cách có chọn lọc vào thị trường cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Qua đó, đảm bảo quyền tự chủ, liên doanh, liên kết theo khuôn khổ pháp luật của các thành phần kinh tế, đồng thời đáp ứng được xu hướng phát triển ngày càng nhanh của công nghệ tin học, điện tử trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

c. Các quy định về hoạt động tín dụng ở nước ngoài và hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các tổ chức tín dụng

- Đối với hoạt động tín dụng ở nước ngoài: Trên thực tế, nhu cầu của các tổ chức tín dụng đối với các hoạt động tín dụng ở nước ngoài là khá lớn (chẳng hạn cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài, cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp nước ngoài, v.v). Tuy vậy, các văn bản pháp luật hiện nay chưa đề câp hoặc đề cập chưa cụ thể, do vậy các tổ chức tín dụng không có cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện các hoạt động như vậy. Trong Luật TCTD sửa đổi nên xem xét, quy định hoặc ít nhất là định hướng cho các hoạt động này.

- Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các tổ chức tín dụng: Mặc dù đã rất cổ gắng để sửa đổi bổ sung phù hợp với sự phát triển của hoạt động tài chính ngân hàng ở nước ta, Dự thảo vẫn chỉ dừng lại ở phạm vi điều chỉnh hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác hoạt động trên lĩnh vực ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam mà chưa điều chỉnh những hoạt động này khi chúng được thực hiện qua biên giới hoặc xuyên quốc gia. Các quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần và tỷ lệ bảo đảm an toàn của tổ chức tín dụng như trong dự thảo sẽ được áp dụng chung cho việc tổ chức tín dụng góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, hay chỉ cho riêng doanh nghiệp Việt Nam? Với những cơ hội lớn khi tham gia hệ thống ngân hàng tài chính toàn cầu, hiện nay, không ít tổ chức tín dụng trong nước có nhu cầu thực sự để đầu tư ra nước ngoài như: thành lập công ty con, thành lập chi nhánh, thành lập văn phòng đại diện ở các quốc gia khác, đầu tư vào các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm… Mặc dù sẽ phải tuân thủ quy định của pháp luật nước sở tại nơi tổ chức tín dụng Việt Nam đầu tư, nhưng với vai trò là mạch máu của nền kinh tế, các tổ chức tín dụng Việt Nam nên được kiểm soát chặt chẽ hơn khi đầu tư ra nước ngoài. Đề nghị bổ sung thêm một phần nữa trong Dự thảo liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của tổ chức tín dụng, trong đó quy định về nguyên tắc, điều kiện và thủ tục đầu tư ra nước ngoài của tổ chức tín dụng, phù hợp với các cam kết quốc tế đa phương và song phương của Việt Nam.

4. Những góp ý cụ thể

4.1 Về giải thích từ ngữ (Điều 4 - Giải thích từ ngữ):

- Những từ ngữ cần giải thích trong Dự luật, ngoài lý do chuyên ngành khó hiểu, cần một sự thống nhất, thì điều bắt buộc là phải sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại. Do vậy, những từ ngữ chỉ xuất hiện 1 lần (ngoài lần giải thích) hoặc xuất hiện vài lần nhưng chỉ tại một điều luật, thì việc định nghĩa tại một điều chung là không hợp lý, mà chỉ cần định nghĩa ngay tại điều khoản mà nó xuất hiện. Ví dụ các trường hợp sau:

+ Thuật ngữ “Cung ứng dịch vụ thanh toán” (khoản 14), chỉ xuất hiện thêm 1 lần tại khoản 11 của Điều 4 (chính Điều giải thích từ ngữ);

+ Thuật ngữ “Phát hành giấy tờ có giá” (khoản 15), ngoài lần xuất hiện tại khoản 12 của chính Điều giải thích, thì chỉ còn được nhắc đến tại Điều 92 (Phát hành giấy tờ có giá của TCTD);

+ Thuật ngữ “Môi giới tiền tệ” (khoản 22), chỉ xuất hiện thêm 1 lần ại điểm a, khoản 1, Điều 107 (Các hoạt động kinh doanh khác);

+ Thuật ngữ “Hoạt động ngân hàng điện tử” (khoản 24), cũng nên định nghĩa tại Điều 97, là điều quy định riêng về hoạt động này. Sau đó khái niệm này cũng chỉ được nhắc đến 1 lần nữa tại Điều 133 (Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng điện tử);

+ Thuật ngữ “Các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp” (khoản 26), chỉ xuất hiện 1 lần nữa tại khoản 4, Điều 130 (Tỷ lệ bảo đảm an toàn) (nhưng có thêm chữ “các” trước chữ “doanh nghiệp”. Còn một số điều khác thì chỉ sử dụng một phần của cụm từ đã được định nghĩa;

+ Thuật ngữ “Sở hữu gián tiếp” (khoản 28), chỉ dùng cho chính điều về định nghĩa, không được nhắc lại ở bất cứ điều nào khác (Điều 50 nhắc đến cụm từ “gián tiếp sở hữu”);

+ Nếu như định nghĩa các từ ngữ trên, thì không có lý gì không giải nghĩa các từ ”công ty kiểm soát” (được nhắc đến 32 lần); ”thanh khoản” (được sử dụng 2 lần tại điểm d, khoản 2, Điều 93 - Quy định nội bộ); ”cam kết ngoại bảng” (điểm b, khoản 1, Điều 130 - Tỷ lệ bảo đảm an toàn).

- Xác định cụm từ được định nghĩa không chính xác, như:

+ Định nghĩa thuật ngữ “Bảo lãnh ngân hàng” (khoản 19), nhưng sau đó lại sử dụng thuật ngữ rút gọn là “bảo lãnh” (như điểm c, khoản 3, Điều 98 - Hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại; điểm e, khoản 1, Điều 108 - Hoạt động kinh doanh của công ty tài chính);

+ Định nghĩa thuật ngữ “Thành viên độc lập của HĐQT” (khoản 29), nhưng sau đó chỉ được nhắc lạc 1 lần tại khoản 2 Điều 50 (Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD), còn lại thì sử dụng cụm từ “Thành viên độc lập”. Vì vậy cần định nghĩa cụm từ “Thành viên độc lập” thay vì cả cụm từ “Thành viên độc lập của HĐQT”.

+ Định nghĩa thuật ngữ “Góp vốn, mua cổ phần của TCTD” (khoản 25), nhưng sau đó chỉ được nhắc đến 1 lần tại khoản 2, Điều 135 (Góp vốn, mua cổ phần giữa các công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát), còn lại thì chỉ được sử dụng cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần”. Vì vậy cần định nghĩa cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần” thay vì cả cụm từ “Góp vốn, mua cổ phần của TCTD”.

- Một số từ ngữ đã được định nghĩa chung nhưng không cần thiết hoặc không được sử dụng chính xác sau đó:

+ Những thuật ngữ định nghĩa xong rồi lại không được sử dụng hoặc lại sử dụng với từ ngữ khác đi thì hoàn toàn không cần định nghĩa, ví dụ như “Sở hữu gián tiếp”,…;

+ Những thuật ngữ chỉ xuất hiện một lần duy nhất hoặc tại một điều (một Mục) duy nhất thì không nên định nghĩa hoặc cần giải thích ngay tại nơi nó xuất hiện, như “Cung ứng dịch vụ thanh toán”, “Phát hành giấy tờ có giá”, “Môi giới tiền tệ”, “Các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp”,…

+ Về quy định một số nghiệp vụ được thực hiện “theo quy định của NHNN” (khoản 13 và 14, Điều 4 - Giải thích từ ngữ): Quy định này thiếu chính xác, vì hiện nay một số nội dung đã có quy định của Luật hay Nghị định, như Luật các công cụ chuyển nhượng quy định về chiết khấu hối phiếu, hay đã có Nghị định của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán,....

+ Một số định nghĩa cần cân nhắc tới tính thống nhất:

+ Dự thảo qui định (Khoản 31 Điều 4) công ty liên kết là công ty trong đó TCTD hoặc người có liên quan của TCTD hoặc TCTD và người có liên quan của TCTD sở hữu từ hơn 11% vốn điều lệ trở lên hoặc từ hơn 11% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên, nhưng không phải là công ty con của TCTD đó. Điều này có nghĩa là luật khống chế tỷ lệ sở hữu vốn của TCTD ở mức từ hơn 11% đến 50% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần của công ty khác. Các công ty có cổ phần, vốn góp của TCTD từ 11% trở xuống không được gọi là công ty liên kết. Về vấn đề này, trước đây ở Việt Nam đã có qui định: công ty liên kết là công ty có một phần vốn góp không chi phối của công ty khác (Nghị định 153/2004/NĐ – CP ngày 9/8/2004, Nghị định 111/2007/NĐ – CP ngày 26/6/2007 hướng dẫn thi hành Luật DNNN năm 2003). Theo thông lệ quốc tế, công ty liên kết là công ty có cổ phần, vốn góp của doanh nghiệp khác chiếm không quá 50% vốn điều lệ của công ty đó. Vậy việc khống chế về tỷ lệ sở hữu vốn, đưa ra mức sàn là hơn 11% đã tạo ra sự khác biệt không đáng có giữa pháp luật VN và pháp luật các nước trên thế giới (trong đó có PL của các nước thành viên WTO). Thêm vào đó, luật các TCTD nên có sự kế thừa các qui định về công ty liên kết trước đây.

+ Về thuật ngữ “vốn tự có” được quy định tại khoản 9, Điều 4 (Giải thích từ ngữ) và nhiều điều khác: Không cần thiết tạo ra một khái niệm mới không khác biệt nhiều so với khái niệm “vốn chủ sở hữu”, nhằm thống nhất với thuật ngữ chung đã được quy định trong Luật Kế toán năm 2003 và pháp luật về tài chính, kế toán hiện hành.

- Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung định nghĩa một số thuật ngữ sau: Ngày làm việc; bất khả kháng; tài sản chính; dịch vụ hỗ trợ thanh toán; ngân hàng đầu tư; điểm giao dịch; kinh doanh vàng. Những thuật ngữ này được sử dụng nhiều lần trong Dự thảo nên cần được định nghĩa cụ thể.

4.2 Điều 6 về các hình thức TCTD

- Ban soạn thảo cần có những lý do thích hợp mới nên hạn chế về hình thức của các TCTD. Trong khi "Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.", thì tổ chức tín dụng trong nước thì lại không thể được thành lập dưới hình thức công ty TNHH. Điều này phần nào làm hạn chế quyền của các tổ chức, cá nhân trong nước trong hoạt động này. Ngược lại, các tổ chức, cá nhân Việt Nam thì được thành lập theo hình thức tổ chức tín dụng cổ phần, trong khi các nhà đầu tư/tổ chức tín dụng nước ngoài lại không thể. Điều này cũng hạn chế quyền của các bên đó.

- Đề nghị Ban soạn thảo xem xét để mở rộng loại hình tổ chức doanh nghiệp đối với các tổ chức cá nhân trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài trong việc thành lập tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

4.3 Về thực hiện quy định về bảo hiểm tiền gửi (khoản 1, Điều 10 - Bảo vệ quyền lợi của khách hàng):

- Quy định một trong những trách nhiệm của TCTD là “Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ” sẽ trở nên bất hợp lý sau khi có Luật Bảo hiểm tiền gửi (đang được soạn thảo).

- Quyền lợi của khách hàng còn có thể được đảm bảo trên một phương diện nữa, đó là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ có trách nhiệm đền bù thiệt hại cho khách hàng nếu sai phạm xảy ra là do lỗi của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và gây ra thiệt hại chính đáng cho khách hàng, cho dù có trường hợp bất khả kháng, theo mức độ phù hợp với quy định của pháp luật. Đây là một yêu cầu nhằm tăng trách nhiệm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Đề nghị bổ sung quy định về nghĩa vụ đền bù của TCTD đối với thiệt hại của khách hàng.

4.4 Điều 12 về người đại diện theo pháp luật của TCTD

- Đề nghị quy định cụ thể về người đại diện theo pháp luật của TCTD. Ví dụ ”Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên hoăc Tổng Giám đốc (hoặc Giám đốc) TCTD là người đại diện theo pháp luật của TCTD theo quy định cụ thể tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của TCTD. Trong trường hợp Điều lệ tổ chức và hoạt động của TCTD không quy định, thì Tổng Giám đốc (hoặc Giám đố) là người đại diện theo pháp luật của TCTD”.

- Đối với khoản 2 Điều 12, việc để giới hạn thời gian để người đại diện uỷ quyền cho người khác thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình khi vắng mặt quá 15 ngày là không phù hợp. Có thể sửa đổi theo hướng có thể uỷ quyền cho người khác để thực hiện một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ và quyền hạn của mình khi vắng mặt, trừ trường hợp điều lệ có quy định khác.

4.5 Điều 20 về Điều kiện cấp phép

- Về “Cổ đông sáng lập” điểm b, khoản 1, Điều 20 - Điều kiện cấp Giấy phép) và một số điều khác: Theo quy định, phải đưa vào Điều lệ và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh danh sách Cổ đông sáng lập. Tuy nhiên khái niệm Cổ đông sáng lập được đề cập đến trong Dự thảo cũng như quy định hiện hành của NHNN, thì lại khác hẳn với quy định của Luật Doanh nghiệp. Vì vậy nếu không được xác định cụ thể trong Dự luật thì sẽ xung đột, vướng mắc sau này.

- Về điều kiện cấp giấy phép (điểm d, khoản 1, Điều 20): Quy định để được cấp Giấy phép là phải ”Có điều lệ tổ chức và hoạt động phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật”. Tuy nhiên đến điểm a, khoản 2, Điều 26 (Điều kiện khai trương hoạt động) lại quy định ”Có Điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật và đã được đăng ký tại NHNN.” Như vậy, thì không biết điều lệ trước và sau khác nhau thế nào?

4.6 Về thời hạn cấp phép và lệ phí cấp phép tại Điều 22, 23 (xem ở trên).

4.7 Về thu hồi Giấy phép (điểm b, khoản 1, Điều 28 - Thu hồi Giấy phép):

- Quy định một trong những trường hợp TCTD bị thu hồi Giấy phép là: TCTD giải thể. Tuy nhiên so với quy định tại khoản 3, Điều 154 (Giải thể TCTD) là lại mâu thuẫn, vì khoản này quy định một trong những trường hợp giải thể là TCTD “bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động”. Như vậy, thì không biết TCTD bị thu hồi Giấy phép rồi sẽ phải giải thể hay đã giải thể rồi thì sẽ bị thu hồi Giấy phép.

- Điểm e khoản 1 Điều 28 có đề cập đến một trường hợp bị thu hồi Giấy phép là: vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về dự trữ bắt buộc, các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Quy định này không giải thích rõ ràng thế nào là vi phạm nghiêm trọng, nên sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng điều khoản này vào thực tế, đồng thời có thể dẫn đến việc xử lý không thống nhất.

- Ngoài ra, việc thu hồi Giấy phép là một chế tài rất nặng nề, ảnh hưởng đến không chỉ Tổ chức tín dụng bị thu hồi, mà còn ảnh hưởng đến hệ thống tổ chức tín dụng và tâm lý người dân trong cả nước. Do đó, nên quy định chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn điều kiện và thủ tục thu hồi Giấy phép, trong đó nên có một trình tự kiểm tra, đôn đốc, xử phạt trước khi thu hồi.

4.8 Về những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ (khoản 1, Điều 33 - Những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ): Quy định thành viên HĐQT, thành viên HĐTV không được đồng thời là “Người quản lý của TCTD khác”. Tuy nhiên, theo khái niệm về Người quản lý tại khoản 33, Điều 4, thì ngoài Chủ tịch, thành viên HĐQT, Chủ tịch, thành viên HĐTV, Tổng giám đốc (Giám đốc)” còn có thể có “các chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ của TCTD”. Điều này có thể dẫn đến trường hợp Luật không cấm, nhưng do Điều lệ mở rộng khái niệm Người quản lý, nên lại trở thành đối tượng bị cấm. Ngược lại là quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 50 (Điều kiện, tiêu chuẩn đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD), “có ít nhất 3 năm là người quản lý của TCTD”, có thể xảy ra trường hợp theo Luật thì không đáp ứng được, nhưng theo Điều lệ thì lại được. Vì vậy, trong các trường hợp này, cần liệt kê những chức danh bị cấm thay vì sử dụng thuật ngữ chung hoặc không mở rộng khái niệm Người quản lý.

4.9 Khoản 1 Điều 35 về tạm đình chỉ một số chức danh. Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ hơn cụm từ ”vi phạm quy định pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao” như hình thức vi phạm, tính chất vi phạm..., hoặc cần phải uỷ quyền quy định rõ ràng trong Dự thảo.

4.10 Về nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV (khoản 2, Điều 43 - HĐQT, HĐTV và cơ cấu HĐQT, HĐTV): Quy định “Nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV là 05 năm. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT, HĐTV theo nhiệm kỳ của HĐQT, HĐTV và không quá 05 năm” là quá cứng nhắc, cần xem xét thay đổi như sau:

- Quy định nhiệm kỳ 4 năm và cơ chế thay đổi 1/2 số thành viên HĐQT giữa nhiệm kỳ để bảo đảm tính kế thừa và ổn định liên tục, tránh tại một thời điểm có thể dẫn đến tất cả số thành viên đều là mới, sẽ gây khó khăn cho việc quản trị ngân hàng. Tuy nhiên, việc bầu lại một nửa số thành viên theo phương thức bầu dồn phiếu sẽ dẫn đến việc người đại diện cho những cổ đông sở hữu một vài chục phần trăm cổ phần không có cơ hội trúng cử thành viên HĐQT, HĐTV;

- Quy định nhiệm kỳ không quá 5 năm, để cho các TCTD quyết định cụ thể trong Điều lệ và thay đổi linh hoạt trong thời hạn này. Việc này sẽ phù hợp với những trường hợp chưa định hình chuẩn về nhân sự quản trị TCTD.

4.11 Điều 44 và 45 Ban kiểm soát và cơ cấu Ban kiểm soát

Kinh nghiệm của các thị trường phát triển cho thấy rằng, hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ nên là một phần không tách rời của hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng. Mặc dù tính độc lập của bộ phận này luôn được nhấn mạnh, nhưng vì hệ thống này hỗ trợ chặt chẽ với hoạt động thường ngày của tổ chức tín dụng, như cung cấp tư vấn, khuyến nghị, phê chuẩn, v.v…, tính độc lập của Ban kiểm soát chỉ là tương đối, vì vậy, trong tổ chức và hoạt động của các ngân hàng ở các thị trường phát triển, bộ phận này vẫn báo cáo cho Ban quản trị để đảm bảo sự vận hành thông suốt của ngân hàng. Việc đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nên được thực hiện bởi một bộ phận độc lập, không liên quan đến hoạt động hàng ngày của ngân hàng, là bộ phận Kiểm toán nội bộ, để đảm bảo tính độc lập và trung thực của báo cáo. Chính vì vậy, bộ phận Kiểm toán không thể và không nên nằm trong Ban Kiểm soát, mà nên báo cáo trực tiếp cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên. Vì lý do này, chúng tôi khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét và cân nhắc về sự tồn tại và vai trò của Ban Kiểm soát.

4.12 Khoản 2 Điều 48 về nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc

- Tương tự như Luật Doanh nghiệp, Dự thảo này cũng quy định về nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc (Giám đốc) không quá 5 năm. Tuy nhiên, quy định này có thể gây xung đột với quy định của pháp luật lao động về thời hạn và hiệu lực của Hợp đồng lao động nếu Tổng Giám đốc (Giám đốc) là người lao động làm thuê. Vì Hợp đồng lao động phải ghi rõ thời hạn, vị trí, chức danh công việc. Thời hạn Hợp đồng tối đa là 36 tháng hoặc không xác định thời hạn. Nếu ký Hợp đồng lao động có xác định thời hạn thì khi hết thời hạn, người sử dụng lao động được ký thêm một Hợp đồng có thời hạn nữa, nếu sau đó vẫn tiếp tục lao động thì hai bên phải ký Hợp đồng không xác định thời hạn. Với Hợp đồng không xác định thời hạn thì việc quy định nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc sẽ không phù hợp.

- Bên cạnh đó, các ràng buộc, kiểm soát hoạt động đối với Tổng Giám đốc cũng đã được quy định chi tiết. Do vậy, không cần thiết quy định về nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc (Giám đốc).

4.13 Về điều kiện bầu thành viên HĐQT, thành viên Ban kiểm soát, bổ nhiệm Tổng giám đốc (Điều 51 - Chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên HĐQT, HĐTV, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD): Nên quy định thật cụ thể và chặt chẽ tiêu chuẩn, điều kiện của các đối tượng này, thay vì thủ tục hành chính “xin - cho” không cần thiết là phải được NHNN chấp thuận trước khi bầu, bổ nhiệm. Đồng thời quy định NHNN được quyền đình chỉ, bãi miễn đối với các trường hợp vi phạm.

4.14 Về trường hợp không được mua cổ phần ưu đãi (điểm c, khoản 3, Điều 52 - Các loại cổ phần, cổ đông): Quy định “các chức danh quản lý, điều hành khác của TCTD không được mua cổ phần ưu đãi cổ tức do chính TCTD phát hành”. Trong trường hợp này không rõ ai là người thuộc các chức danh quản lý, điều hành khác, vì Luật chỉ định nghĩa chức danh “Người quản lý”.

4.15 Điều 56 về việc chào bán cổ phần của tổ chức tín dụng

Mặc dù Điều 56 có tên là Chào bán và chuyển nhượng cổ phần nhưng nội dung của Điều này lại không đề cập đến việc chào bán cổ phần của tổ chức tín dụng. Đây là hoạt động thường gặp của các tổ chức tín dụng nên Dự thảo cần có quy định chi tiết, đặc biệt là trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước về vấn đề này, trong đó cần chú ý đến các quy định về chào bán cổ phiếu ra công chúng của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán để tránh xung đột.

4.16 Điều 59 Về Đại hội đồng cổ đông

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông (Điều 59 - Đại hội đồng cổ đông): Cần tách thành 2 điều: Điều thứ nhất là ”Đại hội đồng cổ đông” gồm khoản 1 định nghĩa, khoản 2 quy định về điều kiện tiến hành họp, khoản 3 và 4 về thủ tục thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Điều thứ hai là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông”, gồm 19 vấn đề mà trong Dự thảo đang để trong khoản 2. Việc này giúp cho điều Luật rõ ràng, đơn giản, tránh dài dòng, phức tạp và thuận tiện cho việc viện dẫn ngay trong Dự luật (viện dẫn 4 lần tới các điểm tại khoản này) cũng như áp dụng trên thực tế. Đồng thời như thế mới và tương xứng với việc Dự luật đã thiết kế 1 điều riêng về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT, 1 điều riêng về nhiệm vụ, quyền hạn Ban Kiểm soát.

- Về thông qua phương án phát hành cổ phiếu (điểm i, khoản 2, Điều 59 - Đại hội đồng cổ đông): Quy định về một trong những quyền và nhiệm vụ của Đại hội đồng cổ đông là: “Thông qua phương án thay đổi mức vốn điều lệ; thông qua phương án phát hành cổ phiếu, bao gồm loại cổ phần và số lượng cổ phấn mới sẽ phát hành”. Tuy nhiên, Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp lại quy định việc “thay đổi mức vốn điều lệ” đối với công ty đại chúng (theo Dự luật thì các ngân hàng TMCP đều là công ty đại chúng) là hoạt động “chào bán chứng khoán”, ”chào bán cổ phần” và “phát hành chứng khoán” ra công chúng. Vì vậy, đề nghị sử dụng thuật ngữ thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán để tránh vướng mắc đã xảy ra trên thực tế do từ ngữ khác nhau. Ngoài ra việc “phát hành” trong quy định trên, phải là phát hành ”cổ phần” chứ không phải là “cổ phiếu”.

- Về thẩm quyền quyết định chọn tổ chức kiếm toán độc lập (điểm n, khoản 2, Điều 59): Dự luật giao cho Đại hội đồng cổ đông việc này. Đề nghị giao thẩm quyền này cho HĐQT, vì việc lựa chọn phải thực hiện vào cuối năm tài chính, trong khi cuộc họp thường kỳ Đại hội đồng cổ đông lại vào đầu năm. Trên thực tế Đại hội đồng cổ đông có lựa chọn thì cũng chỉ thông qua một danh sách tổ chức kiểm toán chung chung hoặc lại buộc phải uỷ quyền cho HĐQT.

- Tại điểm s khoản 2 Điều 59 Dự thảo quy định: Đại hội đồng cổ đông “... Thông qua các hợp đồng có giá trị từ 10% trở lên so với vốn tự có của tổ chức tín dụng ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất giữa tổ chức tín dụng với thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, cổ đông lớn, người có liên quan của những người này; công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”. Nếu quy định chung chung là Hợp đồng thì sẽ gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong khi các hợp đồng nhận tiền, gửi tiền, thế chấp cầm cố, .... thường xuyên được giao dịch mà lại phải chờ được Đại hội đồng cổ đông thông qua là không phù hợp với thực tiễn hoạt động của tổ chức tín dụng. Vậy nên, đề nghị quy định này chỉ áp dụng cho một số loại hợp đồng như hợp đồng đầu tư dài hạn, hợp đồng mua sắm trang thiết bị của tổ chức tín dụng.

4.17 Về đề nghị triệu tập họp bất thường (khoản 3 và 4, Điều 65 - Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT): Quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT là: ”Đề nghị Chủ tịch HĐQT triệu tập cuộc họp HĐQT bất thường theo quy đinh tại Luật này” và ”Đề nghị triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường theo quy định tại Luật này.” Tuy nhiên Dự luật không có quy định về các trường hợp triệu tập họp bất thường này của các thành viên HĐQT (điểm c, khoản 4, Điều 112 của Luật Doanh nghiệp quy định Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT khi có đề nghị của ít nhất 2 thành viên HĐQT).

4.18 Điều 94 về xét duyệt cấp tín dụng

- Về điểm a, khoản 1 Điều 96 đối với hợp đồng cấp tín dụng. Đề nghị bỏ phần ”mục đích sử dụng vốn” vì rất khó có thể xác định được mục đích sử dụng vốn trong nhiều hoạt động của ngân hàng.

- Về lưu giữ hồ sơ tín dụng (điểm c, khoản 1, Điều 96 - Lưu giữ hồ sơ tín dụng): Nên thay quy định lưu hồ sơ “trong trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua”, bằng quy định: Trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua và được lưu giữ trong bộ hồ sơ tín dụng hoặc lưu riêng. Vì thực tế có thể do nhiều cấp tham gia quyết định. Nếu do Hội đồng tín dụng tại Hội sở chỉnh của TCTD quyết định, thì có thể không gửi Biên bản, mà chỉ gửi bản trích sao biên bản hoặc văn bản thông báo phê duyệt cho chi nhánh để lưu hồ sơ tín dụng (vì về nguyên tắc, Biên bản phải phản ánh đầy đủ ý kiến khác nhau, trong đó cỏ thể có những nội dung không phù hợp, không cần thiết chuyển cho chi nhánh).

4.19 Điều 98 về việc phát hành thẻ tín dụng

- Theo khoản 3 Điều 98, phát hành thẻ tín dụng là một hình thức cấp tín dụng, mà việc cấp tín dụng đòi hỏi những quy định chặt chẽ (phương án kinh doanh, mục đích sử dụng vốn, khả năng tài chính, biện pháp bảo đảm…). Trong trường hợp phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, không thể xác định được phương án kinh doanh cũng như mục đích sử dụng vốn (theo Điều 94, Điều 96). Bên cạnh đó, các cá nhân như thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, bố mẹ vợ chồng con của những người này.. là đối tượng không được cấp tín dụng (Điều 126) nên các đối tượng này cũng không được sử dụng thẻ tín dụng của chính tổ chức tín dụng của mình.

- Bên cạnh đó, với một hạn mức giao dịch tín dụng thấp, thẻ tín dụng có tính năng làm phương tiện thanh toán nhiều hơn là một hình thức cấp tín dụng. Vì vậy, Điều 98 nên được sửa lại theo hướng: Phát hành thẻ tín dụng không phải là một hình thức cấp tín dụng mà là một hình thức cung ứng dịch vụ thanh toán (chuyển nội dung này từ khoản 3 vào khoản 4 Điều 98). Như vậy cũng phù hợp với bản chất của thẻ tín dụng hơn.

4.20 Điều 103 và Điều 107 về góp vốn mua cổ phần

- Điều 103, Khoản 3 Dự thảo qui định về việc góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp không trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro lớn (ngân hàng, CK, bảo hiểm) phải được sự chấp thuận của NHNNVN. Điều này thể hiện sự can thiệp của Nhà nước đối với quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của DN. Thiết nghĩ, luật nên đưa ra một giới hạn tỷ lệ góp vốn nhất định đối với TCTD, dựa vào đó để TCTD có thể tự quyết định được các hoạt động của mình mà không cần sự chấp thuận của NHNN. Luật nên hạn chế tối đa các vấn đề cần sự xin phép, chấp thuận của các cơ quan công quyền nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp trong thời buổi hội nhập.

- Khoản 3 Điều 103 của Dự thảo đang có mâu thuẫn với điểm b, khoản 2 Điều 107. Theo khoản 3 Điều 103 Ngân hàng thương mại có thể được mua cổ phần nhưng theo khoản điểm b, khoản 2 Điều 107, Ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện việc mua bán cổ phần thông qua công ty con, công ty liên kết. Bên cạnh đó, tại Điều 103, việc góp vốn, mua bán cổ phần của Ngân hàng thương mại phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước khi thực hiện. So với thực tế hiện nay là các Ngân hàng đang được chủ động góp vốn, mua bán cổ phần thì đã có một bước kiểm soát của NHNN với vấn đề này, như vậy là đã có cơ chế bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và vận hành của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Dự thảo lại không có quy định điều kiện, thủ tục để Ngân hàng nhà nước chấp thuận việc Ngân hàng thương mại góp vốn, mua cổ phần. Chính vì vậy, quy định này sẽ tạo cơ chế “tiền kiểm” không rõ ràng. Do đó, việc góp vốn, mua bán cổ phần, tham gia thị trường chứng khoán nên được áp dụng theo nguyên tắc “hậu kiểm”. Tức là, các Tổ chức tín dụng có thể chủ động mua bán trong một giới hạn nhất định (Điều 129 đã quy định), đồng thời có các báo cáo gửi Ngân hàng nhà nước theo định kỳ. Việc kiểm soát các giao dịch góp vốn. mua bán cũng không phải là quá phức tạp vì các chứng từ, tài liệu, báo cáo về tài chính cũng khá rõ ràng nên Ngân hàng nhà nước hoàn toàn có thể kiểm tra được tại từng thời điểm.

- Về các hoạt động phải thông qua công ty con, công ty liên kết tại khoản 2 Điều 103 và khoản 2 Điều 107: Theo nội dung này, ngân hàng thương mại được yêu cầu phải thành lập công ty con, công ty liên kết để thực hiện một số nghiệp vụ đặc thù (chứng khoán, bảo hiểm…). Nhưng việc ngân hàng thương mại hoạt động thông qua công ty con, công ty liên kết theo hình thức nào thì không được Dự thảo quy định rõ. Về nguyên tắc thì khoản 5 Điều 134 đã có quy định: Công ty kiểm soát không được can thiệp vào tổ chức quản lý, hoạt động của công ty con, công ty thành viên ngoài các quyền của chủ sở hữu, thành viên góp vốn hoặc cổ đông. Vậy thì ngân hàng thương mại có được ủy thác vốn cho công ty con, công ty liên kết để kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm…hay không. Để tránh những quy định không rõ ràng, Dự thảo chỉ nên liệt kê các hoạt động kinh doanh đặc thù này và quy định Ngân hàng thương mại không được trực tiếp kinh doanh các hoạt động đó. Với quy định như vậy, Ngân hàng thương mại có thể chủ động thành lập công ty con, công ty liên kết hoặc hợp tác kinh doanh với các công ty chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính, quản lý tài sản, quản lý quỹ… miễn là không trái các quy định của pháp luật.

- Khoản 6 Điều 103 về quyền mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác. Điều khoản này sẽ vi phạm quyền mua cổ phiếu của ngân hàng thương mại với tư cách là một doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, và cũng mâu thuẫn với Điều 53 khoản 3 về quyền ưu tiên mua cổ phiếu. Vì vậy, đề nghị bỏ điều khoản này. Đề nghị thời hạn nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ là 12 tháng. Nếu ngân hàng thương mại muốn nắm giữ số cổ phiếu đó quá thời hạn quy định để xin trở thành cổ đông thì phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

4.21 Điều 105 về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ

- Hoạt động kính doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù, riêng có của ngân hàng thương mại mà hoạt động của thị trường ngoại tệ thì có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần được quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, Dự thảo không đề cập nhiều đến hoạt động này của các Ngân hàng thương mại. Trong toàn bộ Dự thảo, chỉ Điều 105 đề cập đến việc Ngân hàng thương mại được kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

- Vì vậy, Dự thảo nên có thêm một số nội dung quan trọng (như việc quản lý ngoại tệ ra vào lãnh thổ Việt Nam, việc kinh doanh ngoại tệ mặt…) được “luật hóa” từ Pháp lệnh ngoại hối và các Nghị định liên quan như Nghị định số 160 ngày 28-12-2006 hướng dẫn Pháp lệnh ngoại hối.

4.22 Điều 106 về nghiệp vụ uỷ thác và đại lý

Tương tự như môi giới tiền tệ, khái niệm và phạm vi uỷ thác, được uỷ thác, giao đại lý, đại lý cần được làm rõ trong Dự thảo trước khi NHNN có thể ban hành các quy định cụ thể về vấn đề này. Trên thực tế, hoạt động uỷ thác và đại lý của các tổ chức tín dụng đã rất sôi động trên thị trường tài chính, nhưng cho đến nay chưa có văn bản cụ thể nào hướng dẫn về vấn đề này. Luật các tổ chức tín dụng với chức năng là văn bản quy phạm quy định hoạt động của tổ chức tín dụng nên đưa ra khái niệm/quy định chung về vấn đề này làm cơ sở cho việc cụ thể hóa tiếp theo. Đề nghị bổ sung khái niệm uỷ thác, được uỷ thác, giao đại lý, đại lý trong dự thảo.

4.23 Hoạt động kinh doanh của công ty tài chính (Điều 108)

Tại Mục b Khoản 1 Điều 108 Dự thảo Luật TCTD quy định “Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu để huy động vốn của tổ chức theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước”, trong khi Mục 6 Nghị định 81 quy định: “Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác có kỳ hạn từ 01 năm trở lên để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam”. Vậy theo Dự thảo, Công ty Tài chính không được phát hành trái phiếu mà trên thực tế, hoạt động này là một trong những kênh huy động vốn dài hạn hiệu quả của Công ty Tài chính. Vậy nên, tại Mục b Khoản 1 Điều 108 Dự thảo Luật CTCTD đề nghị Ban soạn thảo bổ sung: “Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác bằng VND và ngoại tệ để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước”.

4.24 Quy định mở tài khoản của công ty tài chính (Điều 109)

Khoản 2 Điều 109, Dự thảo quy định: “Công ty Tài chính được mở tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại”. Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung Khoản 2 Điều 109 thành “Công ty Tài chính được mở tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam”. Trên thực tế, khi Công ty Tài chính trực tiếp phát hành hoặc liên kết phát hành thẻ tín dụng quốc tế phải mở tài khoản thanh toán tại tổ chức tín dụng nước ngoài để thực hiện giao dịch thẻ theo yêu cầu của Tổ chức phát hành thẻ quốc tế, đặc biệt đối với các Công ty Tài chính chuyên ngành thẻ thì đây là điều kiện bắt buộc trong hoạt động. Bởi vậy, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại nội dung này để phù hợp với hoạt động của Công ty Tài chính và thông lệ giao dịch thẻ quốc tế.

4.25 Quy định về góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính (Điều 110)

- Tại Khoản 2 Điều 110 Dự thảo quy định: “Công ty Tài chính được góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp, quỹ đầu tư”, trong khi tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 79 đang cho phép Công ty Tài chính được Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác. Một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa Ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng là Tổ chức tín dụng phi ngân hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực đầu tư còn NHTM chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền gửi dân cư, cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán; vậy nên đề nghị Ban soạn thảo xem xét quy định này đối với Công ty Tài chính điều chỉnh lại như Nghị định 79 đã quy định.

- Khoản 3 quy định: “Công ty Tài chính chỉ được thành lập công ty con, công ty liên kết hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm sau khi được Ngân hàng Nhà Nước chấp thuận”. Nếu theo nội dung quy định này, Công ty Tài chính không được thành lập công ty con, công ty liên kết trong các lĩnh vực khác ngoài bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm.Về điểm này, đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại để phù hợp hơn như: Khi Công ty Tài chính phát triển đến một quy mô đủ mạnh thì sẽ có nhu cầu thành lập công ty con, công ty liên kết để chuyên môn hoá hoạt động, tách bạch các hoạt động có tính rủi ro cao và đòi hỏi hệ thống quản trị rủi ro chuyên biệt; đặc biệt là sử dụng được lợi thế về kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ví dụ như Công ty phát hành thẻ, Công ty bao thanh toán, Công ty tín thác, Cty mua bán doanh nghiệp; Vậy nên, Công ty Tài chính Điện lực đề nghị bổ sung thêm lĩnh vực tài chính vào điểm này của Dự thảo để tăng thêm thế mạnh của Công ty Tài chính cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của loại hình này.

4.26 Điều 118 về phạm vi hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân

Điều 118 của Dự thảo quy định về hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân có bổ sung hoạt động “nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân” không phải là thành viên (điểm b khoản 1). Chúng tôi đề nghị xem xét lại vấn đề này, vì một số lý do sau:

- Từ mục tiêu tại Đề án thí điểm về Quỹ tín dụng nhân dân, đến quy định tại Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13-8-2001 về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân đều khẳng định: Quỹ tín dụng nhân dân “thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.

- Quy định tại khoản 5 Điều 4 của Dự thảo cũng khẳng định hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân là “nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống”.

Do đó, việc cho phép huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên, dù là tỷ lệ nào đi chăng nữa đều không phù hợp với nguyên tắc nêu trên, thậm chí có thể tác động làm sai lệch mục đích xây dựng và vận hành “gốc” của tổ chức này.

4.27 Khoản 7 Điều 126 về quyền của ngân hàng thương mại, chi nhánh

Đề nghị cho phép các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu. Có thể quy định hạn chế áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể. Đề nghị điều khoản này được sửa đổi như sau: “Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán theo quy định của Chính phủ”.

4.28 Về hạn chế cấp tín dụng (khoản 1, Điều 127 - Hạn chế cấp tín dụng): Cần chuyển một trong những đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng là Kế toán trưởng của TCTD tại điểm a sang điểm b hoặc tách ra thành một điểm riêng, vì không cùng nhóm với các đối tượng được nêu tại điểm a là “Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”. Ngoài ra, cần quy định rõ, khái niệm tại điểm d, khoản 1 về “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” tránh cách hiểu khác nhau tại đã đeo đẳng hơn chục năm nay (đang được quy định trong Luật các TCTD hiện hành).

4.29 Khoản 1 Điều 128 (xem mục 3.4)

4.30 Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần (Điều 129 - Giới hạn góp vốn, mua cổ phần): Nên nâng “Mức vốn góp, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và các công ty con của ngân hàng thương mại đó vào một doanh nghiệp” từ 11% lên 20%, đồng thời giới hạn thêm tỷ lệ không quá 11% so với vốn điều lệ của ngân hàng (bên cạnh tổng mức góp vốn, mua cổ phần 40%).

4.31 Về yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng điện tử (Điều 133 - Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng điện tử): Quy định trách nhiệm của TCTD là “phải thiết lập hệ thống nhận dạng, giám sát và kiểm soát các rủi ro, thực hiện đảm bảo an toàn và bảo mật trong hoạt động ngân hàng điện tử theo quy định của Chính phủ.” Sẽ trở lên bất hợp lý nếu sau này có Luật Giám sát tài chính.

4.32 Điều 138 về hạch toán và kế toán. Quy định của Dự thảo yêu cầu các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện hạch toán kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán. Thay đổi này sẽ khiến chi nhánh ngân hàng nước ngoài gặp nhiều khó khăn vì là đơn vị hạch toán phụ thuộc vào ngân hàng mẹ; do vậy, hệ thống tài khoản của chi nhánh phải thống nhất với ngân hàng mẹ. Do đó, đề nghị bổ sung Điều 142 của Dự thảo như sau: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện hạch toán theo hệ thống tài khoản, chế độ chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi sử dụng hệ thống tài khoản ngân hàng mẹ thì phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.

4.33 Điều 146 về các trường hợp áp dụng kiểm soát đặc biệt

Việc áp dụng kiểm soát đặc biệt đối với một tổ chức tín dụng là một chế tài nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chính tổ chức tín dụng đó, đến sự an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng trong nước. Trong khi đó, một số trường hợp áp dụng kiểm soát đặc biệt lại chưa rõ ràng, chưa có các yếu tố định lượng để xác định cụ thể như: Có nguy cơ mất khả năng chi trả, có nguy cơ dẫn đến khả năng mất vốn, vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật. Dự thảo nên có quy định cụ thể hơn như sau:

- Có nguy cơ mất khả năng chi trả, được biểu hiện: 03 lần trong một tháng không đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả tối thiểu bằng 1 giữa Tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và Tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo.

- Có nguy cơ mất khả năng thanh toán, được biểu hiện:

+ Nợ xấu chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ cho vay hoặc từ 100% tổng vốn tự có trở lên trừ trường hợp đã trích dự phòng bằng 100% Nợ xấu; hoặc

+ Số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% tổng giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ.

- Bỏ điểm c khoản 3 Điều 146 “Vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng” vì quy định không rõ ràng và đã có quy định chế tài liên quan đến việc xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật ngân hàng.

4.34 Về thứ tự ưu tiên trả nợ (khoản 3, Điều 151 - Khoản vay đặc biệt): Cần bổ sung vào cuối câu “Khoản vay đặc biệt này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của TCTD” đoạn ”kể cả nợ có tài sản bảo đảm”, để tránh tình trạng xung đột với quy định về ưu tiên thanh toán nợ có bảo đảm của Bộ luật Dân sự.

4.35 Khoản 2 Điều 155 về phá sản tổ chức tín dụng. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét ban hành quy chế phá sản đối với tổ chức tín dụng. Hiện giờ chưa có quy định cụ thể của pháp luật về phá sản cho tổ chức tín dụng, và pháp luật phá sản doanh nghiệp hiện giờ không thể áp dụng cho tổ chức tín dụng bởi tổ chức tín dụng có những đặc điểm riêng biệt.

4.36 Về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành (Điều 164 - Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành): Quy định thẩm quyền cụ thể hoá Luật quá rộng: ”Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn... những nội dung cần thiết khác trong Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước”.

5. Một số góp ý khác

5.1 Về bố cục của các điều luật: Cần bảo đảm tính lô gíc và kỹ thuật soạn thảo văn bản, thống nhất về kết cấu của các điều, khoản; tránh tình trạng xuất hiện các đoạn văn không thuộc bất cứ bố cục nào của điều luật: Không thuộc về tên điều; không thuộc khoản 1, 2, 3,...; không thuộc điểm a, b, c,... (trừ điều luật không phân thành khoản, điểm). Đó là các đoạn đầu tiên của các điều 2, 4, 10, 11, 53, 57, 58, 67, 98, 105, 112, 116, 118, 119, 122, 125, 132, 134, 150 và 154. Xin đề xuất 3 cách khắc phục như sau:

- Cách thứ nhất: Bỏ đoạn văn dẫn dắt, giữ nguyên các nội dung khác. Ví dụ: Điều 4 ”Giải thích từ ngữ” cần bỏ câu ”Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:” mà không ảnh hưởng gì đến cách hiểu, vì đó là điều hiển nhiên. Không những thế, những thuật ngữ này còn được hiểu trong toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trừ trường hợp có quy định riêng khác.

- Cách thứ hai: Bỏ đoạn văn dẫn dắt đồng thời đổi tên điều cho phù hợp. Ví dụ Điều 53 có tên là ”Quyền của cổ đông” thì ngay dưới đó chỉ cần quy định thẳng các khoản nói về quyền của cổ đông chứ không cần chèn thêm một câu lửng lơ ”Cổ đông phổ thông có các quyền sau đây:”; tuy nhiên cần đổi tên điều là ”Quyền của cổ đông phổ thông”. Tương tự tại Điều 10, cần bỏ đoạn dẫn dắt ”TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm:” và đổi tên Điều từ ”Bảo vệ quyền lợi của khách hàng” thành ”Trách nhiệm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng”;

- Cách thứ ba: Chuyển đoạn văn dẫn dắt thành một khoản chung, các khoản còn lại sẽ trở thành các khoản quy định cụ thể. Ví dụ: Điều 57 (Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông hoặc theo quyết định của TCTD), cần chuyển đoạn dẫn dắt “TCTD chỉ được quyền mua lại cổ phần của cổ đông trong các trường hợp:” thành khoản 1 như sau “TCTD chỉ được quyền mua lại cổ phần của cổ đông trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và 3 của Điều này”; đồng thời sửa lại các khoản này (cũng có thể nhập khoản 2 và 3 thành 1 khoản, trong đó có 2 điểm). Tương tự đối với đoạn dẫn dắt tại Điều 67 (Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐTV), cần được chuyển thành khoản 1 định nghĩa về HĐTV, các nội dung còn lại là khoản 2 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc khoản 2 là nhiệm vụ, quyền hạn chung, khoản 3 là nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể). Hoặc là câu dẫn dắt tại Điều 132 (Kinh doanh bất động sản), cần được chuyển thành khoản 1 quy định chung về việc không được kinh doanh bất động sản và trừ các trường hợp cụ thể được nêu tại khoản 2 (gồm 3 điểm là các khoản 1, 2 và 3 trong Dự thảo).

5.2 Về tên các điều luật (các Điều 49, 63, 82, 86,...): Điều 49 và 86 đều có chung một tên điều là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng giám đốc (Giám đốc)”. Điều 63 và Điều 82 đều có tên gọi giống nhau là ”Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT”. Tên các điều luật cần tránh trùng lặp nhau và tránh trùng lặp với tên mục, chương (trừ trường hợp chương, mục chỉ có 1 điều). Bên cạnh đó, Điều 62 đã xác định tên cụ thể ”HĐQT của TCTD là công ty cổ phần” thì tên Điều 81 không thể gọi tên điều là ”Hội đồng quản trị”, mà phải tương ứng là ”HĐQT của TCTD là hợp tác xã”.

5.3 Về sử dụng các từ ”thời hạn”, ”thời gian” và ”trong vòng”: Không thống nhất trong việc sử dụng 2 từ này. Ngoài các điều 22, 26, 29, 31, 36, 43, 44, 45, 52, 53, 54, 56, 58, 59, 63, 77, 84, 95, 96, 113, 132, 141, 143, 146, 147, 148, 162, sử dụng từ ”thời hạn”, các điều khoản dưới đây phải thay từ ”thời gian” và ”vòng” bằng từ ”thời hạn” thì mới chính xác và bảo đảm sự thống nhất với các điều khoản khác:

- Khoản 16, Điều 4 (Giải thích từ ngữ): ”Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”;

- Điểm 4, khoản 4, Điều 29 (Những thay đổi phải được NHNN chấp thuận): ”Công bố nội dung thay đổi quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều này trong vòng 7 làm việc...”;

- Khoản 3, Điều 31 (Điều lệ): ”Điều lệ của TCTD và mọi sửa đổi, bổ sung Điều lệ của TCTD phải được đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước trong vòng 15 ngày kể từ ngày được thông qua.”;

- Khoản 2, Điều 35 (Đương nhiên mất tư cách): ”HĐQT... phải có văn bản báo cáo... gửi NHNN trong vòng 05 ngày làm việc...”;

- Khoản 3, Điều 42 (Kiểm toán độc lập): ”Trong vòng 30 ngày kể từ ngày quyết định chọn tổ chức kiểm toán độc lập,...”;

- Khoản 3, Điều 51 (Chấp thuận danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên HĐQT, HĐTV, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD): ”TCTD phải thông báo cho NHNN danh sách những người được bầu, bổ nhiệm các chức danh quy định tại khoản 1 Điều này trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày bầu, bổ nhiệm.”;

- Khoản 5, Điều 55 (Tỷ lệ sở hữu cổ phần): ”Trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động,...”;

- Điều 61 (Báo cáo kết quả họp Đại hội đồng cổ đông): ”Trong vòng 15 ngày kể từ ngày bế mạc cuộc họp, tất cả các quyết định được Đại hội đồng cổ đông thông qua phải được gửi đến NHNN.”;

- Khoản 2, Điều 77 (Điều lệ): ”Điều lệ và mọi sửa đổi, bổ sung Điều lệ của TCTD là hợp tác xã phải được đăng ký tại NHNN trong vòng 15 ngày kể từ ngày được thông qua.”;

- Khoản 6, Điều 103 (Góp vốn, mua cổ phần): ”Trong trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ, ngân hàng thương mại phải bán số cổ phiếu này trong vòng 06 tháng kể từ ngày xử lý tài sản bảo đảm là cổ phiếu.”;

- Khoản 1, Điều 142 (Báo cáo tài chính của công ty kiểm soát): ”Trong vòng 90 ngày kể từ thời điểm kết thúc năm tài chính, ngoài báo cáo và tài liệu theo quy định của pháp luật, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho NHNN các báo cáo sau đây”;

- Khoản 8, Điều 142 (Báo cáo tài chính của công ty kiểm soát): ”Trong vòng 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho NHNN báo cáo tổng hợp...”;

- Khoản 2, Điều 162 (Quy định chuyển tiếp đối với tổ chức đang hoạt động): ”Trong thời gian tối đa 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành...”.

5.4 Về sử dụng 2 từ “quy định” và “quy chế”: Không thống nhất trong việc sử dụng 2 từ này như dưới đây, dẫn đến không thể phân biệt được thẩm quyền ban hành, tính chất của văn bản và yêu cầu của Luật. Đề nghị thống nhất sử dụng cụm từ “quy định nội bộ” (không viết hoa chữ “quy định”) hoặc HĐQT, Ban kiểm soát ban hành Quy chế, Tổng Giám đốc ban hành quy định:

- Khoản 1, Điều 11 (Trách nhiệm phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố) quy định TCTD phải xây dựng ”các quy định nội bộ” về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật;

- Điểm e, khoản 2, Điều 26 (Điều kiện khai trương hoạt động) quy định: TCTD phải có “các quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, hoạt động…”, “quy chế nội bộ về quản lý rủi ro; quy chế về quản lý mạng lưới”;

- Điểm c, khoản 1, Điều 40 (Hệ thống kiểm soát nội bộ) quy định: Phải tuân thủ “các quy chế, quy trình, quy định nội bộ”;

- Khoản 2, Điều 40 (Hệ thống kiểm soát nội bộ) định nghĩa: Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ,...”;

- Khoản 1, Điều 44 (Ban kiểm soát và cơ cấu Ban kiểm soát) quy định: Ban kiểm soát là cơ quan có trách nhiệm kiểm soát, đánh giá việc chấp hành ”các quy định nội bộ, các quy định của pháp luật, Điều lệ...”;

- Khoản 2, Điều 45 (Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát) quy định một trong những trách nhiệm của Ban kiểm soát là ban hành ”Quy định nội bộ của Ban kiểm soát”;

- Khoản 5, Điều 49 (Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng giám đốc (Giám đốc)) quy định một trong những thẩm quyền của Tổng giám đốc là ban hành ”các quy chế, quy định nội bộ”;

- Điểm d, khoản 1, Điều 54 (Nghĩa vụ của cổ đông) yêu cầu cổ đông tuân thủ Điều lệ và ”các quy chế quản lý nội bộ TCTD”;

- Khoản 11, Điều 63 (Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT) quy định HĐQT ban hành ”các Quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động của TCTD”;

- Khoản 1, Điều 65 (Nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên HĐQT) yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của một thành viên HĐQT theo đúng ”quy chế nội bộ của HĐQT...”;

- Điểm l, khoản 2, Điều 67 (hiệm vụ và quyền hạn của HĐTV) quy định HĐTV ban hành ”các quy định nội bộ liên quan tới tổ chức, quản trị và hoạt động TCTD”;

- Khoản 1, Điều 69 (Nhiệm vụ và quyền hạn của thành viên HĐTV) yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của một thành viên HĐTV theo đúng ”quy chế nội bộ của HĐTV...”;

- Điểm c, khoản 1, Điều 72 (HĐTV) quy định HĐTV của TCTD TNHH 2 thành viên trở lên ban hành ”Quy định nội bộ của HĐTV và các quy định nội bộ liên quan đến tổ chức, quản trị và hoạt động TCTD”;

- Điều 93 (Quy định nội bộ) quy định các TCTD phải xây dựng và ban hành ”các quy định nội bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của TCTD”, trong đó có ”Quy định cấp tín dụng” (không thể có một quy định chung, mà phải là nhiều quy định về cho vay, bảo lãnh, chiết khấu,...); ”Quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro”; ”Quy định về đánh giá chất lượng tài sản Có và tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu”; ”Quy định về quản lý thanh khoản”; ”Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ”; ”Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ”; ”Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của TCTD”; ”Quy định về quy trình, thủ tục phù hợp, bao gồm cả nguyên tắc “nhận biết khách hàng” để bảo đảm ngăn ngừa việc TCTD bị lạm dụng cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác” và TCTD phải gửi cho NHNN ”các quy định nội bộ” nói trên;

- Khoản 4, Điều 95 (Chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, điều chỉnh lãi suất) quy định TCTD có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo ”quy định nội bộ của TCTD”;

5.5 Về các trường hợp sử dụng từ ngữ khác:

- Cần thay chữ “mở” bằng chữ “lập” tại khoản 4, Điều 10 (Bảo vệ quyền lợi của khách hàng); điểm i, khoản 2, Điều 20 (Điều kiện cấp Giấy phép); khoản 1, Điều 30 (Cơ cấu tổ chức mạng lưới); khoản 4, Điều 63 (Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị); khoản 2, Điều 158 (Nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN). Cụm từ “mở chi nhánh” là từ ngữ dân dã, không thống nhất với quy định lập Chi nhánh của Luật Doanh nghiệp (nhất là trong đăng ký kinh doanh). Nếu quy định là “mở” chi nhánh thì ngược với việc đó phải là “đóng” chi nhánh, nhưng trong Dự luật đang sử dụng cụm từ “chấm dứt hoạt động” của chi nhánh;

- Cần thay cụm từ “Tổng giám đốc (Giám đốc)” bằng cụm từ “Tổng giám đốc hoặc Giám đốc” như Luật Doanh nghiệp để bảo đảm sự rõ ràng, chính xác.

- Cần sửa cụm từ “quy định của NHNN” (xuất hiện 38 lần) thành ”quy định của Thống đốc NHNN” và sửa cụm từ ”NHNN quy định” (xuất hiện 25 lần) thành ”Thống đốc NHNN quy định” cho cho đúng với thẩm quyền theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008;

- Không chính xác khi viết cụm từ “Tham dự và phát biểu trong Đại hội đồng cổ đông” (khoản 1, Điều 53 - Quyền của cổ đông); “triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường để họp” (Điều 60 - Họp Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu của NHNN); “Sau Đại hội đồng cổ đông đầu tiên…” (khoản 1, Điều 63 - Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT”. Cần sửa thành câu “Tham dự và phát biểu trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông” “triệu tập Đại hội đồng cổ đông để họp bất thường” và “Sau cuộc họp Đại hội đồng cổ đông đầu tiên”;

- Không thống nhất khi viết thuật ngữ “bảo đảm” và “đảm bảo” (cần sử dụng thống nhất là “bảo đảm”);

- Không thống nhất khi viết từ “hng năm” và “hàng năm”. Cần viết chính xác là “hng năm” (lặp đi lặp lại) như Luật Doanh nghiệp (tương tự là hng ngày) (có 10 từ “hằng ngày” tại các điều khoản 39.3, 63.19, 67.2, 68.2, 70.2, 72.1, và 142.5, còn lại là 13 từ “hàng năm” và 6 từ “hàng ngày”);

- Không thống nhất cách viết hoa một số từ, cụm từ như: Đại hội đồng cổ đông và Đại Hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Hội đồng Quản trị, Ban kiểm soát và Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc và Tổng Giám đốc (xuất hiện 31 chữ Tổng giám đốc và 65 chữ Tổng Giám đốc), Người quản lý và người quản lý, Người điều hành và người điều hành, Trưởng ban và Trưởng Ban, Giám đốc Chi nhánh và Giám đốc chi nhánh, quy chế nội bộ và Quy chế nội bộ, quy định nội bộ và Quy định nội bộ, 5 và 05,…. Khi đề cập đến các chức danh này đối với từng đối tượng (nhóm đối tượng) đã được xác định cụ thể, thì mới viết hoa chữ thứ hai, còn trong quy định của Luật là đề cập đến một cách chung chung, không xác định cụ thể, thì hoặc là chỉ viết hoa chữ đầu tiên hoặc là không viết hoa chữ nào;

- Không thống nhất trong việc sử dụng cụm từ ”Điều lệ TCTD” (xuất hiện 42 lần) và ”Điều lệ của TCTD” (xuất hiện 30 lần);

- Không thống nhất trong việc sử dụng cụm trừ ”hoạt động TCTD” (xuất hiện 2 lần) và ”hoạt động của TCTD” (xuất hiện 36 lần);

- Không thống nhất trong việc sử dụng từ ”bảo đảm” (xuất hiện 46 lần) và ”đảm bảo” (xuất hiện 11 lần). Đề nghị thống nhất sử dụng từ bảo đảm;

- Không thống nhất trong việc sử dụng từ ”sau” và ”sau đây” ở nhiều điều khoản;

Trên đây là bản tổng hợp ý kiến góp ý của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng.



[1] Tất cả những nội dung liên quan tới các Dự thảo, góp ý đã được đăng tải trên trang web diễn đàn xây dựng chính sách của doanh nghiệp Việt Nam: www.vibonline.com.vn

[2] Ví dụ sẽ không có ý nghĩa khi đưa vào Giấy phép những câu chép trong Luật các TCTD hiện hành như sau: “Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế theo quy định của pháp luật” (không biết đã được hay chưa được thực hiện dịch vụ này).

[3] Đề xuất này trên cơ sở đúc rút thực tế áp dụng về thời hạn đăng ký giao dịch bảo đảm trước đây (thời hạn là 5 ngày làm việc và 15 ngày làm việc đối với địa phương thuộc khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa ) và hiện nay (trong ngày làm việc, nếu nộp hồ sơ sau 15 giờ thì đăng ký trong ngày làm việc tiếp theo, trường hợp phức tạp... thì có thể kéo dài nhưng không được vượt quá 05 ngày làm việc) .

Các văn bản liên quan