VCCI_Góp ý Thông tư quy định việc thu hồi, xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn của Bộ Y tế

Thứ Năm 08:51 21-06-2018

Kính gửi: Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế

Trả lời Công văn số 2712/BYT-ATTP của Bộ Y tế về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư quy định việc thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:

  1. Về thu hồi tự nguyện (Điều 3)

Dự thảo quy định cụ thể về thời gian tối đa (24 giờ kể từ thời điểm xác định sản phẩm phải thu hồi) chủ sản phẩm phải thông báo tới người có trách nhiệm trong toàn hệ thống sản xuất, kinh doanh về việc dừng sản xuất, phân phối và thực hiện thu hồi. Điều này là không cần thiết, bởi vì đây là hoạt động thu hồi “tự nguyện” do đó nên cho phép chủ sản phẩm chủ động trong hoạt động thu hồi. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ khoản 1 Điều 3 Dự thảo.

  1. Về thu hồi bắt buộc (Điều 4)
  • Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 4 Dự thảo thì “ngay sau khi xác định sản phẩm phải thu hồi”, cơ quan có thẩm quyền phải ban hành quyết định thu hồi; “ngay khi nhận được quyết định thu hồi”, chủ sản phẩm phải thông báo tới những người có trách nhiệm trong toàn hệ thống … Khái niệm “ngay”, mang hàm ý là “nhanh chóng phải thực hiện” nhưng lại chưa thực sự rõ ràng (sau bao nhiêu tiếng, phút … được hiểu là “ngay”?). Điều này có thể tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau của đối tượng áp dụng, vì vậy để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng, quy định khoảng thời gian cụ thể (trong vòng bao nhiêu giờ đồng hồ), các chủ thể có liên quan phải có trách nhiệm thực hiện.
  • Khoản 2 Điều 4 Dự thảo quy định, “ngay khi nhận được quyết định thu hồi, chủ sản phẩm phải thông báo tới những người có trách nhiệm trong hệ thống sản xuất, kinh doanh (cơ sở sản xuất, các kênh phân phối, đại lý, cửa hàng) sản phẩm phải thu hồi để dừng việc sản xuất, kinh doanh và thực hiện thu hồi sản phẩm”. Quy định này chưa rõ ở điểm, việc thu hồi được thực hiện ở các sản phẩm đang hiện có ở trong hệ thống sản xuất, kinh doanh hay là cả các sản phẩm đã bán cho người tiêu dùng? Đối với các sản phẩm đã bán cho người tiêu dùng thì trách nhiệm của chủ sản phẩm như thế nào? Để đảm bảo thuận lợi cho quá trình thực hiện, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ những vấn đề này.
  1. Về hình thức xử lý sản phẩm sau thu hồi (Điều 5)

Khoản 1 Điều 5 Dự thảo quy định về các hình thức thu hồi sản phẩm. Việc áp dụng hình thức thu hồi sản phẩm dựa vào đặc điểm của các sản phẩm bị thu hồi. Vì vậy, các đặc điểm của các sản phẩm bị thu hồi cần phải được quy định một cách rõ ràng để đảm bảo xác định chính xác hình thức thu hồi. Tuy nhiên, một số quy định vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu này, ví dụ:

  • Hình thức “khắc phục lỗi sản phẩm, lỗi ghi nhãn” được áp dụng đối với “sản phẩm vi phạm về lỗi sản phẩm, lỗi ghi nhãn so với hồ sơ tự công bố hoặc hồ sơ đăng ký bản công bố nhưng không gây ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng”. Khái niệm “lỗi sản phẩm” là không rõ về cách hiểu (là sản phẩm không đạt chất lượng so với công bố hay là lỗi về mặt hình thức?). Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về khái niệm “lỗi sản phẩm”;
  • Hình thức “tái xuất” áp dụng đối với trường hợp “sản phẩm nhập khẩu có chất lượng, mức giới hạn an toàn không phù hợp với hồ sơ tự công bố hoặc hồ sơ đăng ký bản công bố, gây ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng và chủ sản phẩm đề nghị tái xuất”. Điều kiện để áp dụng hình thức tái xuất gồm “vi phạm chất lượng sản phẩm” và “đề xuất tái xuất của chủ sản phẩm”. Trong trường hợp, chủ sản phẩm không đề xuất tái xuất thì sản phẩm này sẽ được xử lý như thế nào, trong khi đây là sản phẩm gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng? Mặt khác, trong bốn hình thức thu hồi thì chỉ có hình thức “tái xuất” là có điều kiện đề xuất của chủ sản phẩm, trong khi đó các hình thức còn lại không thấy đính kèm điều kiện này mà chỉ xem xét đến mức vi phạm của sản phẩm. Điều này dường như là thiếu nhất quán trong các quy định về vấn đề thu hồi.

Đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “chủ sản phẩm đề nghị tái xuất” tại điểm c khoản 1 Điều 5 Dự thảo hoặc giải trình rõ những vấn đề được nêu ở trên.

  • Theo quy định tại khoản 4 Điều 55 Luật an toàn thực phẩm thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn có “trách nhiệm công bố thông tin về sản phẩm bị thu hồi và chịu trách nhiệm thu hồi …”. Dự thảo mới chỉ quy định về trách nhiệm thu hồi của các chủ sản phẩm mà chưa quy định về trách nhiệm công bố thông tin về sản phẩm bị thu hồi. Việc công bố thông tin rất quan trọng, góp phần đảm bảo được quyền lợi người tiêu dùng. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về trách nhiệm của chủ sản phẩm trong việc công bố thông tin về sản phẩm bị thu hồi;
  • Điểm d khoản 5 Điều 55 Luật an toàn thực phẩm quy định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ trực tiếp tổ chức thu hồi, xử lý thực phẩm trong trường hợp thực phẩm có nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng hoặc các trường hợp khẩn cấp khác. Dự thảo chỉ quy định về các trường hợp thu hồi do chủ sản phẩm trực tiếp thực hiện mà chưa quy định về các trường hợp do cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện. Điều này là chưa thống nhất với quy định tại Luật an toàn thực phẩm. Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về các trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành trực tiếp thu hồi sản phẩm, cũng như các quy trình, thủ tục có liên quan.
  1. Phương thức xử lý sản phẩm sau thu hồi (Điều 7)
  • Đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng

Khoản 5 Điều 7 Dự thảo quy định “trong thời gian 05 ngày làm việc, kể từ ngày hoàn thành việc chuyển đổi mục đích sử dụng đối với sản phẩm, chủ sản phẩm phải gửi báo cáo về việc chuyển đổi mục đích sử dụng kèm theo văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý chuyên ngành cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng tới cơ quan có thẩm quyền về an toàn thực phẩm hoặc cơ quan ra quyết định thu hồi sản phẩm”.

Quy định trên có một số vấn đề sau cần được cân nhắc, xem xét:

  • Thiếu quy định về thủ tục hành chính: Theo quy định trên thì chủ sản phẩm sẽ phải có văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý chuyên ngành cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng, tuy nhiên Dự thảo không quy định làm thế nào để chủ sản phẩm có được văn bản chấp thuận này hoặc dẫn chiếu tới văn bản có quy định. Điều này có thể gây khó khăn cho các chủ thể trong thực tế áp dụng, do vậy đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ những vấn đề này;
  • Nhiều cơ quan quản lý tham gia: Theo quy định trên thì sẽ có các cơ quan quản lý nhà nước sau tham gia vào quy trình xử lý sản phẩm bị thu hồi: cơ quan quản lý chuyên ngành; cơ quan có thẩm quyền về an toàn thực phẩm hoặc cơ quan ra quyết định thu hồi sản phẩm. Theo quy định của Dự thảo thì chủ sản phẩm vừa thực hiện thủ tục với cơ quan quản lý chuyên ngành vừa có thể thực hiện thủ tục với cơ quan ra quyết định thu hồi sản phẩm. Hai cơ quan này có thể khác nhau. Điều này có thể khiến cho việc quản lý, theo dõi về vấn đề xử lý sản phẩm sau thu hồi bị rối vì có đến hai cơ quan khác nhau tham gia và có thể xảy ra tình trạng, cơ quan cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng và cơ quan quản lý an toàn thực phẩm lại không biết tình hình xử lý của sản phẩm thế nào (vì họ không được báo cáo) hoặc cơ quan ra quyết định thu hồi sản phẩm không biết việc xử lý sản phẩm ra sao (trong trường hợp chủ sản phẩm lựa chọn báo cáo cho cơ quan khác).

Để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, tránh nảy sinh hiện tượng quản lý chồng chéo giữa các cơ quan nhà nước, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định theo hướng cơ quan nào ra quyết định thu hồi sản phẩm sẽ là cơ quan tiếp nhận, theo dõi các báo cáo của chủ doanh nghiệp. Cơ quan này có thể chia sẻ thông tin với các cơ quan khác để cùng phối hợp quản lý.

Tương tự, góp ý cơ chế này đối với các quy định tại khoản 1, 3, 4 Điều 7 Dự thảo.

  • Đối với trường hợp tiêu hủy

Khoản 4 Điều 7 Dự thảo quy định chưa rõ về cơ quan thực hiện việc tiêu hủy sản phẩm là cơ quan nào? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Thông tư quy định việc thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.