VCCI_Góp ý dự thảo Thông tư trích lập và xử lý các khoản dự phòng
Kính gửi: Cục Tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 141/BTC-TCDN ngày 02/4/2018 của Bộ Tài chính lấy ý kiến về Dự thảo Thông tư hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp (sau đây gọi là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sau khi tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp và chuyên gia, có một số ý kiến như sau:
- Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn việc trích lập và xử lý 4 khoản dự phòng gồm: (1) dự phòng do giảm giá hàng tồn kho, (2) dự phòng tổn thất các khoản đầu tư, (3) dự phòng tổn thất nợ phải thu khó đòi, và (4) dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, công trình xây dựng. Tuy nhiên, theo Thông tư 200/2014/TT-BTC thì ngoài 4 khoản dự phòng trên, còn có nhiều khoản dự phòng khác như dự phòng trợ cấp thôi việc, dự phòng sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định định kỳ, dự phòng thực hiện hợp đồng rủi ro lớn, dự phòng hoàn nguyên môi trường… Đây đều là những khoản chi phí hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vẫn chưa được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp do chưa có hướng dẫn về cách trích lập và xử lý. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung việc hướng dẫn thực hiện trích lập và xử lý các khoản dự phòng rủi ro khác, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
- Quy chế quản lý vật tư, hàng hoá, danh mục đầu tư, công nợ
Điều 3.3 của Dự thảo về nguyên tắc chung trong trích lập các khoản dự phòng có quy định “Doanh nghiệp phải xây dựng quy chế về quản lý vật tư, hàng hoá, quản lý danh mục đầu tư, quản lý công nợ để hạn chế các rủi ro trong kinh doanh, trong đó phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, từng người trong việc theo dõi, quản lý vật tư, hàng hoá, các khoản đầu tư thu hồi công nợ.” Không rõ cơ quan soạn thảo đưa quy định này vào có ý nghĩa gì? Nếu doanh nghiệp không xây dựng quy chế thì có bị xử phạt không? Việc xây dựng quy chế này có phải là một điều kiện để được tính chi phí được trừ từ những khoản dự phòng trích lập không? Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng: Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp lý của việc trích lập các khoản dự phòng.
- Tài liệu chứng minh giá gốc hàng tồn kho cao hơn giá trị thuần
Điều 4.3 của Dự thảo quy định: “…nếu doanh nghiệp có tài liệu hợp lý chứng minh trong năm tài chính giá gốc hàng tồn kho cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho thì…” Quy định này có thể được hiểu rằng khi cơ quan thuế kiểm tra thì doanh nghiệp phải trình được “tài liệu hợp lý” thì khoản trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho mới được công nhận là chi phí hợp lý. Quy định như vậy là gây khó cho doanh nghiệp vì mỗi lần trích lập dự phòng lại phải thu thập, lưu trữ tài liệu chứng minh. Hơn nữa, Cụm từ “tài liệu hợp lý” không rõ ràng, chưa minh bạch và rất khó để doanh nghiệp và cán bộ thuế biết đâu là tài liệu hợp lý, đâu là tài liệu không hợp lý. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định theo hướng doanh nghiệp chủ động xác định giá trị thuần của hàng hoá. Trong trường hợp cơ quan thuế nghi ngờ doanh nghiệp đã xác định giá trị thuần không chính xác thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan thuế.
- Hội đồng xử lý hàng tồn kho, nợ khó đòi
Điều 4.4.b quy định khi doanh nghiệp muốn huỷ bỏ, thanh lý hàng tồn kho phải lập Hội đồng hoặc thuê tổ chức tư vấn có chức năng thẩm định giá. Quy định này gây những thủ tục hành chính không cần thiết cho doanh nghiệp, mà không có nhiều ý nghĩa thực tế, vì các thành viên của Hội đồng đều là người của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng doanh nghiệp chủ động tiến hành việc huỷ bỏ, thanh lý tài sản.
Tương tự, quy định tại Điều 6.4.đ cũng yêu cầu doanh nghiệp phải lập Hội đồng xử lý nợ và phải có Biên bản. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng doanh nghiệp chủ động tiến hành việc xử lý nợ.
- Lâm vào tình trạng phá sản
Điều 6.1 của Dự thảo quy định nợ khó đòi là nợ quá hạn ít nhất 6 tháng, hoặc nợ chưa đến hạn nhưng con nợ là tổ chức kinh tế rơi vào tình trạng phá sản, đang làm thủ tục giải thể, đối tượng mất tích, bỏ trốn, đang bị truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã chết. Theo quy định của Luật Phá sản 2014, khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản” đã được thay thế bằng khái niệm “mất khả năng thanh toán” và được hiểu rằng khi con nợ có khoản nợ quá hạn ít nhất 3 tháng. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn ít nhất 3 tháng, hoặc tổ chức kinh tế mất khả năng thanh toán, đang làm thủ tục giải thể…
Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Thông tư hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp. Kính mong cơ quan soạn thảo xem xét, cân nhắc.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.