VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan

Thứ Tư 15:04 22-08-2018

Kính gửi: Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính

Trả lời Công văn số 8695/BTC-TCHQ của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến như sau:

Về sửa đổi, bổ sung Điều 13 Nghị định 68 về mở rộng, thu hẹp, di chuyển, chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan (khoản 8 Điều 1 Dự thảo)

  • Về hồ sơ:

Theo quy định tại Dự thảo thì đối với trường hợp đổi tên, di chuyển, chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan, doanh nghiệp phải có “văn bản thỏa thuận giữa bên chuyển quyền sở hữu và chủ hàng hóa gửi kho ngoại quan (Bao gồm: Hợp đồng liên quan đến chuyển quyền sở hữu; Văn bản thống nhất của chủ hàng về việc tiếp tục gửi hàng hóa tại kho ngoại quan sau khi chuyển quyền sở hữu trong trường hợp tại thời điểm chuyển quyền sở hữu chủ hàng vẫn có hàng gửi kho ngoại quan)” (điểm đ khoản 2 Điều 13 được sửa đổi, bổ sung).

Việc yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp “văn  bản thống nhất của chủ hàng về việc tiếp tục gửi hàng hóa tại kho ngoại quan sau khi chuyển quyền sở hữu trong trường hợp tại thời điểm chuyển quyền sở hữu chủ hàng vẫn có hàng gửi kho ngoại quan” dường như  chưa hợp lý, hạn chế quyền sở hữu của chủ sở hữu kho ngoại quan (ví dụ trường hợp người gửi hàng không đồng ý tiếp tục gửi hàng thì chủ sở hữu kho ngoại quan không được chuyển quyền sở hữu?).

Cần chú ý rằng về mặt nguyên tắc pháp lý, việc chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan là thỏa thuận giữa 02 chủ thể (bên chuyển quyền và bên nhận chuyển quyền), bên gửi hàng không phải chủ thể của thỏa thuận này mà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà bên chuyển quyền phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền lợi trong thời gian còn hàng gửi ở kho ngoại quan. Cụ thể, pháp luật dân sự (Điều 167-170 Bộ luật dân sự) đã có quy định khá rõ về các nội dung này, theo đó trong trường hợp này thì:

  • Liên quan tới việc chuyển quyền hưởng tiền phí thuê của bên cho thuê: Bên cho thuê có quyền chuyển quyền này cho bên nhận chuyển nhượng, miễn là phải thông báo trước cho bên có nghĩa vụ (trong trường hợp này là bên gửi hàng);
  • Liên quan tới việc chuyển nghĩa vụ cung cấp mặt bằng kho của bên cho thuê: Bên cho thuế có quyền chuyển nghĩa vụ này cho bên nhận chuyển nhượng miễn là dược bên có quyền (trong trường hợp này là bên gửi hàng) đồng ý.

Như vậy, bên gửi hàng phải được thông báo về việc chuyển quyền sở hữu kho, và được lựa chọn tiếp tục hợp đồng gửi hàng hay không. Trường hợp lựa chọn không tiếp tục gửi hàng thì hợp đồng chấm dứt theo thỏa thuận và theo pháp luật. Tuy nhiên điều này hoàn toàn không ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng kho giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng. Vì vậy, quy định về việc phải có văn bản đồng ý tiếp tục gửi hàng của bên gửi hàng trong Hồ sơ chuyển quyền sở hữu là không có căn cứ pháp lý.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc điều chỉnh quy định theo hướng, doanh nghiệp chỉ cần phải cung cấp Hợp đồng liên quan đến chuyển quyền sở hữu tại điểm đ khoản 2 Điều 13 (sửa đổi).

  • Về trình tự, thủ tục

Theo quy định tại khoản 4 Điều 13 sửa đổi thì trình tự đổi tên, chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan được thực hiện như trình tự công nhận kho ngoại quan. Điều này là chưa hợp lý, bởi khác với thủ tục công nhận, thủ tục đổi tên, chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan khá đơn giản về hồ sơ giấy tờ (nhất là trường hợp đổi tên, khi doanh nghiệp chỉ cần cung cấp văn bản chứng minh về việc đổi tên hợp pháp). Cơ quan giải quyết thủ tục không cần thiết phải kiểm tra thực tế kho bãi, thẩm định hồ sơ phức tạp như trường hợp công nhận lần đầu (do trong những trường hợp này gần như các điều kiện ban đầu của kho ngoại quan là không thay đổi, yếu tố thay đổi không ảnh hưởng đến các điều kiện của kho ngoại quan).

Do đó, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và đảm bảo về đơn giản hóa thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo quy định riêng về thủ tục đổi tên, chuyển quyền sở hữu kho ngoại quan theo hướng: chỉ kiểm tra hồ sơ giấy tờ mà không kiểm tra thực tế; thời gian giải quyết thủ tục rút ngắn hơn so với thời gian giải quyết của thủ tục công nhận kho ngoại quan.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.