VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 38/2015/TT-BTC và Thông tư 39/2018/TT-BTC

Thứ Sáu 15:25 28-06-2019

                            Kính gửi: Cục Giám sát quản lý về Hải quan – Tổng cục Hải quan

Trả lời Công văn số 2410/TCHQ-GSCL ngày 24/04/2019 của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Thủ tục khai bổ sung hồ sơ hải quan sau thông qua trong trường hợp gửi thiếu hàng và hàng hoá đã đưa toàn bộ ra khỏi khu vực giám sát hải quan

Điều 20.5.b.1 của Dự thảo quy định: “Ngay sau khi phát hiện hàng hóa bị gửi thiếu, người khai hải quan phải đảm bảo nguyên trạng hàng hóa, không được đưa vào sử dụng” đồng thời, người khai hải quan phải nộp “Kết quả giám định về số lượng hàng nhập khẩu thực tế của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định”. Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, quy định này rất khó khả thi. Các doanh nghiệp thường phải mở lô hàng ra để kiểm đếm mới phát hiện hàng hoá bị thiếu và thường sẽ phải liên lạc với đối tác thì mới xác nhận được điều này. Khi đó, rất khó để bảo đảm được tính nguyên trạng của hàng hoá, và thường thì các giám định viên cũng sẽ từ chối giám định về tính nguyên trạng của hàng hoá. Hơn nữa, sau khi nhận hồ sơ, cơ quan hải quan vẫn tiến hành kiểm tra thực tế, kiểm đếm lại hàng hoá rồi mới cho phép khai bổ sung. Như vậy, sẽ có sự trùng lặp giữa công việc của đơn vị giám định về số lượng hàng hoá và cơ quan hải quan kiểm tra thực tế hàng hoá. Đề nghị cơ quan soạn thảo quy định theo hướng như sau:

  • Doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ đề nghị khai bổ sung mà không có kết quả giám định. Trong trường hợp đó, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra, xác minh như bình thường.
  • Nếu doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị khai bổ sung kèm theo kết quả giám định thì cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra hồ sơ mà không cần kiểm tra thực tế, trừ trường hợp có dấu hiệu gian lận hoặc trường hợp đơn vị giám định hoặc doanh nghiệp nhập khẩu thuộc diện rủi ro cao.
  1. Huỷ tờ khai thay đổi mục đích sử dụng hàng hoá khi đã đăng ký tờ khai nhưng thực tế người khai hải quan không thay đổi mục đích sử dụng

Điều 22.2.a.3 của Dự thảo chỉ quy định chung chung là “người khai hải quan gửi kèm chứng từ chứng minh thực tế hàng hoá không thay đổi mục đích sử dụng” nhưng không nói rõ hồ sơ này cụ thể là gì? Hình thức gửi chứng từ như thế nào? Điều này có thể tạo sự lúng túng cho người thực hiện trên thực tế và tạo kẽ hở để công chức hải quan có những yêu cầu không thoả đáng với doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ về thành phần hồ sơ, hình thức hồ sơ của thủ tục này.

  1. Thủ tục huỷ tờ khai giấy

Đối với trường hợp huỷ tờ khai giấy, hiện nay, công chức hải quan sau khi huỷ tờ khai không trả lại tờ khai huỷ cho doanh nghiệp mà sẽ lưu tờ khai giấy này. Điều này khiến cho doanh nghiệp không có chứng cứ chứng minh mình đã hoàn thành thủ tục. Trên thực tế, kể cả khi đăng ký và huỷ tờ khai giấy thì cơ quan hải quan vẫn nhập vào hệ thống dữ liệu để tiện quản lý. Như vậy thì phía cơ quan hải quan đã có thông tin và chứng cứ về việc huỷ tờ khai giấy và không cần thiết phải giữ tờ khai giấy đã bị huỷ. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa

đổi quy định theo hướng:Công chức hải quan sau khi gạch chéo, ký tên, đóng dấu công chức lên tờ khai thì sao lại 01 bản lưu hải quan và ghi nhận thông tin tờ khai huỷ trên hệ thống (nếu có), trả lại tờ khai gốc cho doanh nghiệp.

  1. Kiểm tra trị giá trong quá trình làm thủ tục hải quan

Điều 25.1 của Dự thảo quy định công chức hải quan căn cứ vào thông tin chỉ dẫn rủi ro trên hệ thống để xác định trường hợp có nghi vấn và kiểm tra trị giá khai báo. Điều 25.2 của Dự thảo quy định một căn cứ để kiểm tra khác là trị giá khai báo thấp hơn/ thấp đột biến/ cao đột biến so với thông tin rủi ro về trị giá tại cơ sở dữ liệu trị giá của cơ quan hải quan.Như vậy cùng là quản lý rủi ro trên hệ thống nhưng yếu tố biến động giá lại được tách riêng. Hơn nữa, dự thảo không quy định việc biến động giá như thế nào được coi là đột biến để làm căn cứ nghi vấn trị giá.

Theo phản ánh của các doanh nghiệp, hiện nhiều doanh nghiệp rất bức xúc với việc thực hiện quy định liên quan đến tham vấn giá, kiểm tra trị giá, có hiện tượng công chức hải quan lạm dụng cơ sở dữ liệu giá để bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp, yêu cầu doanh nghiệp phải tham vấn, khai báo tăng giá theo cơ sở dữ liệu giá, làm tăng số thuế phải nộp, phát sinh tiền phạt vi phạm hành chính.Trong khi đó dự thảo Thông tư sửa đổi thông tư 39/2015/TT-BTC về trị giá hải quan (đang được soạn thảo) đã tiếp thu đóng góp của doanh nghiệp nhằm loại bỏ tư tưởng chỉ dựa vào cơ sở dữ liệu giá để bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp.

    Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định tại Điều 25.2 của Dự thảo.

  1. Quy định tham vấn một lần, sử dụng kết quả tham vấn nhiều lần

Điều 25.5.b của Dự thảo quy định thủ tục thực hiện tham vấn một lần, sử dụng kết quả nhiều lần vẫn tương đối phức tạp. Trường hợp doanh nghiệp mở nhiều tờ khai tại nhiều địa bàn (diễn ra khá thường xuyên) thì các Chi cục Hải quan phải hỏi ý kiến các Cục Hải quan, các Cục Hải quan phải hỏi ý kiến Tổng cục Hải quan. Nếu phải qua nhiều cấp lấy ý kiến như vậy thì có thể dẫn đến tình trạng thủ tục kéo dài. Hơn nữa, hệ thống điện tử của cơ quan hải quan đã có đủ thông tin về lô hàng đề nghị tham vấn cũng như lịch sử tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Vậy việc hỏi ý kiến qua nhiều tầng nấc như vậy có thực sự cần thiết?

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảonghiên cứu đơn giản hoá thủ tục này theo hướng điện tử hoá, giảm tầng nấc trung gian, phân quyền cho cán bộ cấp dưới tự quyết định tự chịu trách nhiệm

  1. Thủ tục cấp lại phiếu theo dõi trừ lùi

Điều 28.2.c của Dự thảo quy định về thủ tục cấp lại Phiếu theo dõi trừ lùi, trong đó yêu cầu doanh nghiệp phải nêu cụ thể từng lần sử dụng Phiếu theo dõi trừ lùi và số lượng còn lại của Phiếu. Quy định này có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp, do đã mất Phiếu theo dõi, nên việc kê khai này thường chỉ theo trí nhớ và rất dễ thiếu sót. Điều 28.2.c.1.2 còn yêu cầu doanh nghiệp phải nộp một bản chụp Giấy phép và Phiếu theo dõi trừ lùi đã được cấp, trong khi Phiếu đã bị mất và doanh nghiệp đang làm thủ tục xin cấp lại. Dự thảo hiện cũng đang quy định hồ sơ xin cấp lại nộp tại Cục Hải quan, nhưng Chi cục Hải quan lại là nơi có thẩm quyền cấp lại Phiếu.

Đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh các quy định về thủ tục cấp lại Phiếu theo hướng như sau:

  • Thứ nhất, chỉ yêu cầu doanh nghiệp nộp đơn đề nghị cấp lại Phiếu. Các nội dung kê khai và bản chụp chỉ có tính chất hỗ trợ thêm thông tin, doanh nghiệp được quyền tuỳ chọn kê khai hoặc nộp kèm mà không bắt buộc phải có.
  • Thứ hai, đầu mối nhận và trả hồ sơ là Chi cục hải quan đã cấp Phiếu. Việc hỏi ý kiến, xác minh thông tin chỉ mang tính nội bộ hệ thống các cơ quan hải quan để tránh gian lận.
  • Thứ ba, mỗi lần doanh nghiệp sử dụng Phiếu theo dõi trừ lùi để làm thủ tục hải quan thì cơ quan hải quan photo lại một bản để lưu cùng bộ hồ sơ, trả lại cho doanh nghiệp bản chính. Việc này sẽ giúp công tác tra cứu lại hồ sơ khi doanh nghiệp làm mất Phiếu theo dõi trừ lùi dễ dàng hơn.
  1. Về việc xử lý sai khác trọng lượng thực tế hàng hoá đưa vào kho hàng không

Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, hiện nay có tình trạng hải quan hoặc kho hàng tại sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất không cho phép hàng hoá xuất khẩu bị sai lệch trọng lượng giữa thông tin trên tờ khai hải quan và thực tế cân tại kho.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: do cân tại kho và tại doanh nghiệp cho kết quả khác nhau, do doanh nghiệp không cân toàn bộ lô hàng trên thực tế mà chỉ cân một sản phẩm rồi nhân với số lượng… Hải quan hoặc kho hàng khi phát hiện chênh lệch đều yêu cầu doanh nghiệp phải sửa lại tờ khai cho đúng với phiếu cân hàng tại kho thì mới được đưa hàng vào khu vực giám sát hoặc phải trả chi phí không chính thức để được “cho qua”.Điều này gây rất nhiều phiền toái một cách không cần thiết cho các doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định tại Điều 52a.7.a.3 theo hướng cho phép một mức độ sai khác nhất định về trọng lượng hàng hoá theo quy tắc quản lý rủi ro.

  1. Quy định thông báo cơ sở gia công, sản xuất xuất khẩu

Điều 56 của Dự thảo quy định về thông báo của cơ sở gia công, sản xuất xuất khẩu. Theo quy định này, các chỉ tiêu thông tin mà doanh nghiệp phải cung cấp cho cơ quan hải quan rất nhiều. Mỗi lần doanh nghiệp có thay đổi về bất kỳ thông tin nào trong mẫu đăng ký sẽ phải thông báo với cơ quan hải quan, như vậy gây khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp quy mô lớn vì tần suất thay đổi tại một số trường thông tin như nhân sự, máy móc,… Nếu chỉ vì tăng giảm một vài công nhân mà vẫn phải thông báo bổ sung cơ sơ sản xuất thì số lần phải thực hiện nghĩa vụ rất nhiều, mà con số này cũng không có ý nghĩa gì đối với cơ quan quản lý. Nhưng nếu doanh nghiệp không thông báo thì lại là vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý.

Mặt khác, khi doanh nghiệp thông báo cơ sở sản xuất trên hệ thống thì hệ thống tự động tiếp nhận thông tin nhưng vẫn phải chờ công chức hải quan kiểm tra tính đầy đủ/hợp lệ của hồ sơ và phản hồi lại cho doanh nghiệp trong thời hạn 02 giờ làm việc. Tuy vậy chưa quy định trách nhiệm của công chức hải quan nếu quá 02 giờ làm việc mà chưa thực hiện phản hồi cho doanh nghiệp thì xử lý thế nào?

Theo quy định tại Nghị định 08/2015/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 59/2018/NĐ-CP), trước khi nhập khẩu lô hàng nguyên liệu đầu tiên để gia công, sản xuất xuất khẩu, doanh nghiệp phải làm thủ tục thông báo cơ sở sản xuất; không có quy định phải chờ cơ quan hải quan đến kiểm tra cơ sở và xác nhận đủ điều kiện thì doanh nghiệp mới được mở tờ khai nhập khẩu; nhưng thực tế hải quan đang hiểu chưa thống nhất về nội dung này.

Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định này như sau:

  • Định kỳ hàng quý (hoặc 06 tháng), doanh nghiệp thống kê những thay đổi liên quan đến các chỉ tiêu thông tin về cơ sở sản xuất đã thông báo và gửi thông báo bổ sung cho cơ quan hải quan về những thay đổi đó.
  • Quá 02 giờ làm việc kể từ khi doanh nghiệp thông báo cơ sở sản xuất cho cơ quan hải quan mà cơ quan hải quan không có phản hồi thì hồ sơ đã nộp được coi là đúng quy định, người khai hải quan không phải sửa đổi, bổ sung gì thêm.
  • Sau khi hoàn thành thông báo cơ sở sản xuất, người khai hải quan có quyền tiến hành đăng ký tờ khai nhập khẩu nguyên liệu vật tư đầu tiên mà không cần đợi cơ quan hải quan kiểm tra xác nhận. Việc kiểm tra xác nhận của cơ quan hải quan theo Nghị định 08 và Nghị định 59 chỉ mang tính hậu kiểm, nếu doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện miễn thuế thì khi đó tiến hành ấn định thuế và xử phạt vi phạm hành chính (nếu có).
  1. Công thức tính định mức thực tế sản phẩm xuất khẩu

Thông tư 39 đã ban hành một công thức tính định mức thực tế sản phẩm xuất khẩu để áp dụng chung cho toàn bộ các doanh nghiệp, không phân biệt ngành nghề sản xuất là gì. Qua thực hiện cho thấy mỗi ngành nghề có đặc thù riêng nên định mức thực tế không giống nhau, chu kỳ sản xuất cũng khác nhau.Công thức hiện nay là công thức tính định mức bình quân cho cả năm tài chính nên luôn có sự chênh lệch với thực tế sản xuất từng thời kỳ, nếu kiểm tra sau thông quan thì chắc chắn các doanh nghiệp đều phải giải trình về sự chênh lệch này. Như vậy quy định hiện hành và trong dự thảo mới chỉ đảm bảo được một vế là doanh nghiệp có theo dõi, có báo cáo còn kết quả có sát thực tế hay không thì chưa đảm bảo được.

Do vậy, thay vì áp dụng một công thức chung như hiện nay, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này, cho phép các doanh nghiệp tự xây dựng định mức và quản lý theo đặc thù sản xuất của mình, báo cáo cơ quan hải quan vào cuối năm tài chính cùng với báo cáo quyết toán tình hình sử dụng nguyên liệu vật tư nhập khẩu và sản phẩm xuất khẩu. Việc kiểm tra của cơ quan nhà nước theo nguyên tắc quản lý rủi ro.

  1. Quản lý nguyên liệu vật tư nhập khẩu, sản phẩm xuất khẩu và báo cáo quyết toán

Qua phản ánh của các doanh nghiệp về thực tiễn từ khi triển khai quy định về báo cáo quyết toán từ năm 2015 đến nay, cả doanh nghiệp và hải quan đều phát sinh vướng mắc và khó khăn khi thực hiện, trong đó có cả các doanh nghiệp lớn, trình độ quản lý cao. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc tuân thủ các quy định này còn khó khăn hơn nhiều khi hạn chế về năng lực, nhân sự, trình độ quản lý.Việc báo cáo quyết toán tuy đã điện tử hoá nhưng chưa triệt để, doanh nghiệp gửi báo cáo quyết toán trên hệ thống những vẫn phải chờ công chức hải quan kiểm tra và phản hồi. Cuối năm tài chính với lượng báo cáo gửi về nhiều sẽ không tránh khỏi việc bỏ sót, kéo dài thời gian phản hồi, doanh nghiệp phải liên hệ trực tiếp với công chức hải quan để yêu cầu xử lý. Với trường hợp doanh nghiệp nộp báo cáo bằng bản giấy, cơ quan hải quan nhận được báo cáo nhưng không quy định phải trả lại cho doanh nghiệp bản xác nhận đã tiếp nhận hồ sơ, dẫn đến doanh nghiệp không yên tâm và không có cách nào chứng minh mình đã nộp báo cáo đúng hạn.

Hiện nay nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp vừa và nhỏ, chế độ kế toán cho doanh nghiệp SME cũng đơn giản hơn với doanh nghiệp thông thường. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu một chính sách quản lý riêng với SME để hỗ trợ một thành phần rất quan trọng trong nền kinh tế có thể phát triển và cạnh tranh được trên thị trường. Bên cạnh đó, đề nghị Tổng cục Hải quan cập nhật lại chức năng phần mềm tiếp nhận báo cáo quyết toán, theo đó hệ thống tự động tiếp nhận và phản hồi kết quả về cho doanh nghiệp, không cần đợi công chức hải quan tiếp nhận. Nếu tiếp nhận báo cáo quyết toán bản giấy thì quy định thêm mẫu phiếu tiếp nhận hồ sơ, công chức hải quan tiếp nhận ký đóng dấu và ghi rõ ngày tháng tiếp nhận để doanh nghiệp biết. Việc gửi/nhận hồ sơ giữa hải quan và doanh nghiệp thực hiện trực tiếp tại trụ sở hải quan hoặc qua đường bưu điện, nếu gửi báo cáo theo đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu bưu điện được tính là ngày nộp báo cáo.

  1. Mẫu công văn đề nghị tiêu huỷ phế liệu, phế phẩm tại Phụ lục V

Dự thảo yêu cầu người khai hải quan phải điền thông tin “mã nguyên liệu, vật tư, phế phẩm” bao gồm cả trường hợp phế liệu, phế phẩm hình thành không qua quá trình sản xuất do hư hỏng, xuống cấp… Việc này là không hợp lý, bởi lẽ, phế liệu phế phẩm hình thành trong quá trình sản xuất nghĩa là đã đưa vào để gia công, chế biến mà thành; khi bị loại ra sẽ lẫn lộn vào nhau chứ không thể tách biệt theo từng loại. Ví dụ sử dụng 3 loại vải và chỉ khác nhau, đầu vào là 6 mã nguyên vật liệu nhưng khi đưa vào máy may thì phế liệu còn lại là các mẩu vải vụn, chỉ vụn lẫn vào nhau, doanh nghiệp không phân tách được để thông báo số lượng theo từng mã nguyên liệu.Tương tự như vậy, phế phẩm nếu bị loại ra trong công đoạn sản xuất có thể chưa phải là thành phẩm nên không phân định được thuộc mã sản phẩm nào.Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo loại bỏ cột “mã nguyên liệu, vật tư, phế phẩm” trong mẫu công văn.

  1. Thủ tục xuất nhập khẩu tại chỗ

Điều 86 của Dự thảo quy định nguyên tắc: tổ chức cá nhân chỉ được khai một tờ khai nhập khẩu tại chỗ đối ứng với một tờ khai xuất khẩu tại chỗ. Quy định này chưa hợp lý, vì trên thực tế người nhập khẩu sẽ phải mở nhiều tờ khai hải quan khác nhau do cùng một lô hàng nhưng có nhiều mặt hàng thuộc các loại hình hàng hoá khác nhau.

Điều 86.5.a.4 quy định người xuất khẩu phải tiếp nhận thông tin tờ khai nhập khẩu tại chỗ đã hoàn thành thủ tục hải quan từ người nhập khẩu để thông báo cho cơ quan hải quan. Cơ quan soạn thảo giải thích quy định này được đưa vào để phù hợp với quy định tại dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 134/2016/NĐ-CP nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia công, sản xuất xuất khẩu khi xuất khẩu tại chỗ vào thị trường nội địa thì được miễn thuế. Tuy nhiên việc này ràng buộc trách nhiệm của người xuất khẩu, trong khi họ đã hoàn thành phần nghĩa vụ khai báo với cơ quan quản lý, trách nhiệm phía nhập khẩu thì người nhập khẩu phải thực hiện, nếu người nhập khẩu thực hiện muộn thì bị xử lý theo quy định. Về bản chất, dù thực hiện muộn hay đúng thời hạn thì điều quan trọng nhất là giao dịch đó phải có thật, hàng hoá được giao nhận thật. Hơn nữa, khi khai báo tờ khai, doanh nghiệp nhập khẩu vẫn phải số tờ khai xuất khẩu lên tờ khai nhập khẩu để dẫn chiếu, cơ quan hải quan có thể tham chiếu được thông tin từ hệ thống.

            Đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này trong Dự thảo và nghiên cứu biện pháp kỹ thuật để hệ thống nhận diện được các trường hợp nhiều tờ khai nhập khẩu mở cho một tờ khai xuất khẩu.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư số 38/2015/TT-BTC và Thông tư số 39/2018/TT-BTC quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.

Các văn bản liên quan