VCCI góp ý Dự thảo Thông tư quy định về kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu
VCCI góp ý Dự thảo Nghị định về khai thác và kinh doanh khoáng sản
PHÒNG Số: 2349 /PTM-PC |
CỘNG HÒA Hà Nội, |
Kính gửi: Vụ Công nghiệp
nặng – Bộ Công thương
Trả
lời đề nghị của Bộ Công thương về việc góp ý Dự thảo Nghị định về khai thác và
kinh doanh khoáng sản (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:
1.
Phạm vi điều chỉnh
Dự thảo Nghị định hiện đang điều chỉnh các hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển,
lưu trữ và kinh doanh đối với các loại
khoáng sản. Như vậy, phạm vi điều chỉnh này rộng hơn phạm vi điều chỉnh của Luật
Khoáng sản – chỉ dừng lại ở việc khai thác khoáng sản, và cũng
rộng hơn nội dung mà Luật Đầu tư giao trong Phụ lục IV – điều kiện đầu tư kinh
doanh đối với ngành nghề kinh doanh khoáng sản. Do đó,
cần phân tích kỹ hơn về biện pháp quản lý khoáng sản từ các khía cạnh pháp lý
và thực tiễn. Cụ thể như sau:
–
Về mặt pháp lý
Việc xây dựng pháp luật về quản lý khoáng sản dựa trên
hai quy định của Hiến pháp, gồm Điều 53 quy định “…tài nguyên khoáng sản… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.” và Điều 14.2. quy
định: “Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.” Tương ứng với đó, pháp luật về khoáng sản thể hiện
hai vai trò của nhà nước (1) vai trò đại diện chủ sở hữu đối với khoáng sản và
(2) vai trò quản lý một hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với vai trò đại diện chủ sở hữu đối với khoáng sản,
Nhà nước chỉ duy trì quyền quản lý đối với khoáng sản vẫn thuộc sở hữu của
mình, còn nếu Nhà nước đã chuyển quyền sở hữu tài sản này cho chủ thể khác thì
vai trò này chấm dứt. Thời điểm chuyển sở hữu đối với khoáng sản là thời điểm
khoáng sản được khai thác một cách hợp pháp lên khỏi mặt đất, nói cách khác,
khoáng sản trước khi khai thác thuộc quyền sở hữu của nhà nước, còn sau khai
thác thì doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản
là khoáng sản đó.
Đối với vai trò thứ hai, quản lý một hoạt động sản xuất
kinh doanh, Điều 14.2 Hiến pháp và Điều 7.1 của Luật Đầu tư đã quy định rằng
Nhà nước chỉ can thiệp vào quản lý một ngành nghề sản xuất kinh doanh “trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng“. Do đó, để đủ cơ sở ban hành các quy định về quản lý khoáng
sản như Dự thảo thì cần làm rõ các vấn đề thực tiễn ảnh hưởng đến quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn, đạo đức, sức khỏe, cụ thể như phân tích tại phần thực
tiễn dưới đây.
–
Về mặt thực tiễn
Khoáng sản sau khi khai thác là một dạng nguyên liệu
thô làm đầu vào của các quy trình sản xuất khác. Việc đặt ra quy định quản lý đối
với chế biến, vận chuyển, lưu trữ và kinh doanh khoáng sản đặt ra các câu hỏi:
–
Tại sao Nhà nước
lại can thiệp vào việc doanh nghiệp chế biến, vận chuyển, lưu trữ và kinh doanh
một thứ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp?
–
Vì sao có rất
nhiều loại nguyên liệu thô đầu vào của sản xuất như nước thiên nhiên, dầu mỏ,
khí tự nhiên, gỗ rừng tự nhiên, thủy sản tự nhiên… mà chỉ riêng khoáng sản lại
có quy định quản lý này?
Đối với chế biến khoáng sản, hiện nay pháp luật đã có
quy định yêu cầu các dự án phải được thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư
theo pháp luật đầu tư, việc xây dựng cũng đã có các quy định về dự án đầu tư
xây dựng và giấy phép xây dựng, vấn đề môi trường đã có pháp luật về bảo vệ môi
trường, về công nghệ chế biến đã có pháp luật về chuyển giao công nghệ điều chỉnh,…
Như vậy, việc bổ sung thêm các quy định về quản lý dự án chế biến khoáng sản
như trong dự thảo chỉ là sự trùng lặp, chồng chéo về nội dung quản lý chứ không
giải quyết được vấn đề trên thực tế. Nếu cơ quan soạn thảo cho rằng các biện
pháp trên được thực thi không tốt thì cần đưa chính sách củng cố việc thực thi
chứ không nên ban hành các quy định chồng chéo nhau. Tương tự, các vấn đề về vận
chuyển, lưu trữ và kinh doanh khoáng sản đều đã có các quy định pháp luật khác
điều chỉnh.
Chỉ có duy nhất một nội dung mà hiện pháp luật vẫn
chưa đầy đủ trong việc quản lý khoáng sản, đó là truy suất nguồn gốc khoáng sản,
hay hồ sơ khoáng sản. Nói cách khác, các quy định pháp luật để bảo đảm khoáng sản
được đưa vào chế biến, sản xuất, vận chuyển, lưu trữ và kinh doanh phải có nguồn
gốc hợp pháp để phân biệt với khoáng sản được khai thác một cách bất hợp pháp.
Hiện nay, có tình trạng khoáng sản được khai thác trái phép (không có giấy phép
hoặc vượt sản lượng nộp thuế) được xuất khẩu, vận chuyển, buôn bán hoặc đưa vào
chế biến, sản xuất mà không được kiểm soát đầy đủ. Đây là vấn đề chưa có công cụ
quản lý một cách phù hợp, mới chỉ được thể hiện rất sơ sài trong Dự thảo và tiếp
tục giao Bộ Công Thương quy định chi tiết.
Quy định này tương tự như quy định về hồ sơ gỗ hay chứng
nhận nguồn gốc thủy sản được áp dụng đối với một số loại tài nguyên thiên nhiên
khác. Kinh nghiệm quản lý các loại tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam cũng như
nhiều quốc gia phát triển cho thấy, một trong những biện pháp hiệu quả nhất để
chống lại việc khai thác trái phép là kiểm soát chặt về nguồn gốc tài nguyên
trong các giai đoạn vận chuyển, buôn bán, sử dụng sau này. Ví dụ, gỗ và sản phẩm
nội thất từ gỗ phải có hồ sơ lâm sản thì mới được nhập khẩu, buôn bán tại Hoa Kỳ,
hay thủy sản phải được chứng nhận nguồn gốc thủy sản hợp pháp (không phải thủy
sản bị đánh bắt tại ngư trường đã quá tải) thì mới được nhập khẩu vào Châu Âu.
Việt Nam cũng đã áp dụng các kinh nghiệm này để quản lý gỗ và sắp tới là thủy sản
được kinh doanh tại nội địa.
Với những lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân
nhắc phạm vi điều chỉnh của Nghị định, chỉ nên tập trung vào các biện
pháp kiểm soát nguồn gốc khoáng sản và bỏ các nội dung khác không cần thiết.
Các góp ý tiếp theo đây của VCCI không ảnh hưởng đến ý
kiến về phạm vi điều chỉnh được thể hiện trên.
2.
Điều kiện đối với dự án khai thác khoáng sản
Điều 5.1 của Dự thảo quy định về điều kiện đối với dự
án khai thác khoáng sản và căn cứ vào Điều 53.2.a của Luật Khoáng sản quy định:
“Dự án đầu tư khai thác khoáng sản
phải có phương án sử dụng nhân lực chuyên ngành, thiết bị, công nghệ, phương
pháp khai thác tiên tiến phù hợp“. Như vậy, Điều 5.1 của Dự thảo được
coi là quy định chi tiết của Điều 53.2.a của Luật Khoáng sản. Tuy nhiên, Quốc hội
không giao cho Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 không cho phép cơ quan nhà nước được ban hành văn bản
quy định chi tiết vượt quá nội dung được giao. Do đó, Điều 5.1 của Dự thảo
không phù hợp với Luật Khoáng sản.
Điều 5.1.a của Dự thảo quy định dự án khai thác khoáng sản phải đảm bảo cung cầu thị trường và đáp ứng
nguyên liệu cho các cơ sở có sản phẩm chế biến sâu. Quy định này can thiệp
thái quá vào quyền tự quyết của doanh nghiệp và không phù hợp với các quy luật
của thị trường. Thứ nhất, cung cầu thị trường được quyết định dựa trên cơ sở
“thuận mua vừa bán” với mức giá cả hợp lý, cơ quan nhà nước không nên
can thiệp vào vấn đề này. Thứ hai, việc ưu đãi các hoạt động chế biến sâu là cần
thiết, song điều này nên được thực hiện bằng các chính sách ưu đãi, chứ không
nên bắt buộc các dự án khai thác khoáng sản phải đáp ứng nguyên liệu cho các cơ
sở chế biến sâu. Thứ ba, các quy định “đảm bảo cung cầu” hay
“đáp ứng nguyên liệu” là định tính và khó xác định. Ví dụ, cầu thị
trường sẽ được tính dựa trên cơ sở nào? theo mức giá nào? (vì mỗi mức giá khác
nhau thì cung cầu sẽ khác nhau), như thế nào được coi là đáp ứng? công suất
khai thác phải đạt bao nhiêu % công suất tiêu thụ của nhà máy chế biến? nếu
không thì có được bán hoặc mua từ đối tác khác không?
Hơn nữa, Điều 5.1.a của Dự thảo đã quy định dự án khai
thác khoáng sản phải phù hợp với quy hoạch khoáng sản. Hiện nay, trong tất cả
các quy hoạch thì yếu tố cung cầu và liên kết giữa khai thác và chế biến đã được
thể hiện. Do đó, cơ quan nhà nước hoàn toàn có thể sử dụng quy hoạch để bảo đảm
các yếu tố này, mà không cần phải đưa thêm điều kiện vào Nghị định này. Nếu cần
thiết vì lý do chưa có cơ sở chế biến sâu, nhà nước vẫn có thể đưa mỏ vào quy
hoạch nhưng xác định mỏ thuộc diện dự trữ (Điều 29 Luật Khoáng sản) và có lộ
trình cấp phép phù hợp.
Với các lý do đó, đề
nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định
“dự án khai thác khoáng sản phải đảm
bảo cung cầu thị trường và đáp ứng nguyên liệu cho các cơ sở có sản phẩm chế biến
sâu” tại Điều 5.1.a.
3.
Thẩm định thiết kế cơ sở của dự án khai thác khoáng sản
Điều 5 và Điều 6 của Dự thảo quy định: thiết kế cơ sở
của dự án khai thác khoáng sản phải được thẩm định tại Bộ Công Thương hoặc Sở
Công Thương. Tuy nhiên, quy định này là trùng lặp, chồng chéo và không phù hợp
với Luật Xây dựng. Điều 57 của Luật Xây dựng 2014 quy định thẩm quyền thẩm định
thiết kế cơ sở thuộc về cơ quan chuyên
môn về xây dựng. Do đó, nếu duy trì quy định này của Dự thảo có thể dẫn
đến hai cách hiểu khác nhau:
–
Thứ nhất, nếu Bộ
Công Thương hoặc Sở Công Thương đã thẩm định thiết kế cơ sở của dự án thì cơ
quan chuyên môn về xây dựng sẽ không thẩm định nữa. Nếu hiểu như vậy thì trái với
Luật Xây dựng.
–
Thứ hai, nếu Bộ
Công Thương hoặc Sở Công Thương thẩm định thiết kế cơ sở của dự án và cơ quan
chuyên môn về xây dựng cũng tiến hành thẩm định nội dung này thì là sự chồng
chéo, trùng lặp về nội dung quản lý. Nếu cơ quan soạn thảo cho rằng việc thẩm định
thiết kế cơ sở của cơ quan xây dựng không bảo đảm thì cần có sự liên thông phối
hợp giữa hai cơ quan trong quá trình thi hành pháp luật chứ không nên yêu cầu
doanh nghiệp thực hiện hai thủ tục có nội dung trùng lặp nhau.
Cả hai cách hiểu như vậy đều không phù hợp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định tại Điều 5.1.b và Điều 6
của Dự thảo.
4.
Điều kiện đối với dự án chế biến khoáng sản
Điều 5.2.a của Dự thảo quy định Dự án chế biến khoáng
sản phải đã xác định cụ thể nguồn nguyên
liệu tin cậy. Quy định này không minh bạch và cũng không cần thiết. Thứ nhất,
yếu tố “xác định cụ thể” và
“tin cậy” là định tính,
không thể xác định một cách khách quan. Thứ hai, việc nhà nước thẩm định yếu tố
“nguồn nguyên liệu” của một
dự án là can thiệp quá mức vào thị trường. Doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư một dự
án sẽ phải tự mình tính toán nguồn nguyên liệu chứ không cần đến sự cho phép của
nhà nước về yếu tố này.
Điều 5.2.b quy định “dự án có sản phẩm chế biến sâu được ưu tiên cung cấp nguồn nguyên liệu
từ khoáng sản trong nước“. Đây không phải là một quy định về điều kiện
đối với dự án chế biến khoáng sản – như tiêu đề của Điều 5, nên không cần thiết
đưa vào đây. Hơn nữa, quy định này dẫn đến câu hỏi: Nhà nước sẽ có biện pháp
nào để “ưu tiên” các mỏ khoáng sản trong nước phải bán nguyên liệu
cho cơ sở chế biến sâu? Nếu biện pháp đó là thuế hay hàng rào phi thuế đối với
khoáng sản xuất khẩu thì không cần quy định ở đây.
Điều 5.2.d yêu cầu “Dự án phải có lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp, đảm bảo an toàn lao
động và bảo vệ môi trường.” Quy định này không minh bạch và không cần
thiết. Thứ nhất, từ “công nghệ, thiết bị phù hợp” là định tính, không có tiêu chí khách quan để
đánh giá. Thứ hai, việc bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường đã được
quy định và thực thi bằng các quy định pháp luật liên quan đến lao động và bảo
vệ môi trường. Việc quy định thêm vào đây sẽ khiến cùng một nội dung (lao động,
môi trường) được bảo đảm thực thi bởi hai cơ quan thủ tục khác nhau gây chồng
chéo, trùng lặp, không cần thiết.
Do đó, đề nghị
cơ quan soạn thảo bỏ quy định tại
Điều 5.2.a, Điều 5.2.b và Điều 5.2.d của Dự thảo.
5.
Yêu cầu đối với người lao động làm việc tại dự án
Nhiều nội dung tại Điều 7 của Dự thảo về yêu cầu đối với
người lao động làm việc tại dự án là chung chung, không rõ ràng và không minh bạch,
cụ thể:
–
Quy định “có sức khỏe đảm bảo” là định tính,
không rõ ràng.
–
Quy định “có bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn phù hợp với
nhiệm vụ được phân công” cũng không rõ ràng, không có tiêu chí xác định
như thế nào là “phù hợp”
–
Quy định “có trang bị bảo hộ lao động phù hợp với công
việc” cũng không rõ ràng, không có tiêu chí xác định như thế nào là
“phù hợp”
–
Quy định “định kỳ được phổ biến, kiểm tra, sát hạch kiến
thức về an toàn lao động và pháp luật có liên quan theo quy định” cũng
không rõ được quy định ở đâu và định kỳ là bao lâu một lần.
–
Quy định “người làm việc với các phương tiện, máy móc,
thiết bị” không bao gồm những loại phương tiện, máy móc, thiết bị nào?
Đề nghị cơ
quan soạn thảo quy định rõ các nội dung trên để
thuận tiện cho quá trình áp dụng.
6.
Điều kiện đưa mỏ vào khai thác
Điều 8 của Dự thảo đưa ra rất nhiều điều kiện trước
khi đưa mỏ vào khai thác và phải trải qua thủ tục kiểm tra, nghiệm thu của cơ
quan nhà nước (Điều 8.5). Trong khi đó, Điều 55.2.c của Luật Khoáng sản chỉ yêu
cầu: Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải “đăng ký ngày bắt đầu xây dựng cơ bản mỏ, ngày bắt đầu khai thác với cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép và thông báo cho Ủy ban nhân
dân các cấp nơi có mỏ trước khi thực hiện”. Như vậy, Luật chỉ quy định
nghĩa vụ đăng ký và thông báo trước khi đưa mỏ và khai thác chứ không quy định
nghĩa vụ phải được kiểm tra, thẩm định. Như vậy, quy định tại Điều 8.5 của Dự
thảo “được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền kiểm tra và chấp thuận công tác nghiệm thu, đưa mỏ vào khai thác bằng văn
bản” là trái Luật Khoáng sản.
Hơn nữa, nhiều nội dung của thủ tục này trùng lặp với
các thủ tục hành chính khác, cụ thể:
–
Quy định “đã hoàn thành công trình bảo vệ môi trường”
là trùng lặp với nội dung đã được quy định tại Nghị định 18/2015/NĐ-CP và được
nghiệm thu bởi cơ quan bảo vệ môi trường.
–
Quy định “đã hoàn thành công trình phòng chống cháy nổ
(nếu có)” là trùng lặp với nội dung đã được quy định tại Luật Phòng
cháy chữa cháy và được nghiệm thu bởi cơ quan phòng cháy chữa cháy.
–
Quy định “đã được nghiệm thu tuân thủ quy định của
pháp luật về xây dựng, đảm bảo yêu cầu về an toàn và chất lượng công trình”
là trùng lặp với nội dung đã được quy định tại Luật Xây dựng và được nghiệm thu
bởi cơ quan quản lý xây dựng.
–
Các nội dung
khác về giấy phép khai thác mỏ,
giấy phép xả thải ra môi trường,
giấy phép sử dụng vật liệu nổ,
giấy chứng nhận đủ điều kiện về an
toàn phòng cháy chữa cháy, các
giấy tờ khác theo pháp luật đất đai, xây dựng, thực hiện nghĩa vụ thuế, phí đều đã được bảo đảm thực thi bằng
công tác hậu kiểm của các cơ quan nhà nước chuyên môn.
Việc quy định lại các nội dung đã được quy định tại
các văn bản khác và yêu cầu kiểm tra, nghiệm thu bằng một thủ tục hành chính mới
do một cơ quan nhà nước khác thực hiện là sự chồng chéo về quy định pháp luật,
trùng lặp về thủ tục hành chính và xung đột về thẩm quyền quản lý. Quy định này
đến khi đi vào thực hiện sẽ khiến doanh nghiệp buộc phải tiếp nhiều đoàn thanh
tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước khác nhau nhưng nội dung thì giống hệt
nhau. Điều này gây phiền phức, lãng phí, không cần thiết và tạo cơ hội cho
nhũng nhiễu, tiêu cực. Trong trường hợp cơ quan soạn thảo thấy rằng biện pháp bảo
đảm thực thi tại các văn bản pháp luật, cơ quan khác không bảo đảm thì quy định
theo hướng các cơ quan phối hợp với nhau để cùng thực hiện việc kiểm tra, chứ
không nên quy định chồng chéo, trùng lặp như vậy.
Trong tất cả các nội dung được quy định tại Điều 8 của
dự thảo, chỉ có hai nội dung liên quan đến “đã hoàn thành xây dựng cơ bản mỏ” và “có bộ máy quản lý và công
nhân lao động đáp ứng theo quy định tại Điều 7 và Điều 10 Nghị định này”
là chưa có cơ quan nào quản lý. Song, tính cần thiết và khả thi của hai quy định
này cũng cần được cân nhắc, cụ thể:
–
Quy định “đã hoàn thành xây dựng cơ bản mỏ”
vượt quá yêu cầu của Luật Khoáng sản tại Điều 55.2.b là “bảo đảm tiến độ xây dựng cơ bản mỏ và hoạt động
khai thác xác định trong dự án đầu tư khai thác khoáng sản, thiết kế mỏ“.
Quy định của Luật Khoáng sản là hợp lý hơn vì công tác xây dựng cơ bản mỏ có thể
kéo dài nhiều giai đoạn, có thể vừa khai thác, vừa xây dựng chứ không nhất thiết
phải hoàn thành từ đầu. Do đó, việc yêu cầu tiến độ xây dựng cơ bản mỏ theo dự
án đầu tư và thiết kế mỏ là phù hợp hơn.
–
Quy định về
“có bộ máy quản lý và công nhân lao
động” là không khả thi. Quy định như vậy sẽ khiến doanh nghiệp buộc phải
ký hợp đồng lao động với toàn bộ lao động của mình trước khi bắt đầu khai thác.
Trong khi đó, điều 7 lại vẫn có nhiều quy định chung chung (như đã phân tích ở
trên) nên sẽ gây khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng. Đối với các điều kiện
về nhân lực, biện pháp quản lý phù hợp hơn là hậu kiểm, tức là bất kỳ khi nào
cơ quan nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp thì tất cả mọi người
lao động lúc đó phải đáp ứng quy định.
Với các lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ Điều 8 (cùng với Điều 9 về thẩm quyền kiểm tra, nghiệm thu) của Dự thảo,
toàn bộ công tác kiểm tra này được thực hiện theo quy định tại Luật Khoáng sản.
Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ phải thông báo đến cơ quan nhà nước trước khi tiến
hành khai thác và cơ quan nhà nước giữ quyền thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
7.
Các chức danh quản lý mỏ khoáng sản
Việc quy định quá chi tiết và cứng nhắc các chức danh
quản lý mỏ như tại Điều 10 của Dự thảo đã can thiệp quá sâu, không cần thiết và
thậm chí vượt quá yêu cầu của Luật Khoáng sản.
Thứ nhất, Luật Khoáng sản chỉ yêu cầu mỗi mỏ khai thác
phải có vị trí giám đốc điều hành mỏ, các vị trí khác như quản đốc, chỉ huy trưởng
công trường, trưởng ca, người phụ trách an toàn mỏ là vượt quá yêu cầu của Luật
Khoáng sản.
Thứ hai, việc tổ chức phân công nhiệm vụ nội bộ của mỗi
mỏ khoáng sản nên để doanh nghiệp tự quyết sao cho phù hợp với điều kiện, năng
lực và các yêu cầu riêng của từng mỏ. Mức độ can thiệp của nhà nước chỉ nên dừng
lại ở việc yêu cầu điều kiện đối với một vị trí nhân sự cao cấp (giám đốc điều
hành mỏ) và điều kiện tối thiểu của người lao động phổ thông tại mỏ. Đây là mức
độ can thiệp phù hợp, vẫn bảo đảm được an toàn lao động mà không ảnh hưởng quá
sâu đến quyền tự quyết của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, tình trạng mất an toàn trong khai
thác khoáng sản được báo chí phản ánh tập trung chủ yếu ở 3 yếu tố: (1) khai
thác hầm lò; (2) sự cố bãi thải mỏ; và (3) sự cố do nổ mìn. Trong những trường
hợp này, cơ quan soạn thảo có thể bố trí gia tăng các quy định về điều kiện
nhân lực để bảo đảm an toàn.
Do đó, đề nghị
cơ quan soạn thảo cân nhắc lại
các trường hợp cần tăng cường quy định về nhân sự làm việc tại các mỏ khoáng sản
sao cho tương ứng với nguy cơ thực tế, đồng thời vẫn duy trì mức độ tự do phù hợp
để doanh nghiệp có thể chủ động bố trí hoạt động sản xuất của mình.
8.
Điều kiện đưa dự án chế biến khoáng sản vào sản xuất
(Điều 12)
Như nội dung đã trình bày tại mục 1 của công văn này,
chế biến khoáng sản chỉ đơn thuần là hoạt động sản xuất có sử dụng khoáng sản
làm nguyên liệu đầu vào, và được quản lý tương tự như nhiều loại hình sản xuất
khác. Các yếu tố an toàn về xây dựng, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường,
an toàn lao động… đều đã có đủ các quy định pháp luật liên quan để giải quyết.
Do đó, việc bổ sung thêm quy định về quản lý các dự án chế biến khoáng sản là
không cần thiết.
Hơn nữa, việc giải thích khái niệm “chế biến khoáng sản” vẫn chưa rõ
ràng. Điều 3.2 của Dự thảo có nêu: “Chế
biến khoáng sản là các hoạt động phân loại, làm giàu, gia công khoáng sản thành
sản phẩm khoáng sản sơ chế và khoáng sản chế biến sâu đáp ứng
tiêu chuẩn sử dụng và yêu cầu thị trường.” Như vậy, việc giải thích
khái niệm “chế biến khoáng sản”
lại phụ thuộc vào cách hiểu các khái niệm “sản phẩm khoáng sản sơ chế” và “khoáng sản chế biến sâu“, trong khi, hai khái niệm sau này
cũng chưa được làm rõ tại bất kỳ một văn bản pháp luật nào. Trên thực tế, hoạt
động sản xuất, chế biến có thể diễn ra vô cùng đa dạng với các công nghệ, nhà
máy, cho các loại thành phẩm khác nhau. Do đó, việc xác định chính xác ranh giới
giữa dự án chế biến khoáng sản với dự án sản xuất khác có sử dụng khoáng sản là
không khả thi.
Tương tự như các góp ý tại mục 6, rất nhiều nội dung của
Điều 12 của Dự thảo đã được quy định chặt chẽ tại các văn bản pháp luật khác
(công trình bảo vệ môi trường, công trình phòng chống cháy nổ, được nghiệm thu
tuân thủ theo pháp luật về xây dựng, giấy phép xả thải ra môi trường, giấy chứng
nhận an toàn phòng cháy chữa cháy, văn bản khác theo pháp luật đất đai, xây dựng).
Do đó, việc bổ sung thêm thủ tục kiểm tra, nghiệm thu như quy định tại Điều
12.3, Điều 12.4 và Điều 13 là không cần thiết. Lưu ý, ở đây không có ý nói rằng
các điều kiện về môi trường, phòng cháy chữa cháy, xây dựng, đất đai là không cần
thiết, mà chỉ muốn phân tích rõ rằng các điều kiện này đã có các biện pháp kiểm
tra, kiểm soát khác phù hợp, việc bổ sung thêm một biện pháp kiểm tra trùng lặp
về nội dung như Dự thảo là không cần thiết.
Do đó, đề nghị
cơ quan soạn thảo bỏ quy định tại
Điều 12 và Điều 13 của Dự thảo.
9.
Lưu giữ khoáng sản
Một số quy định về lưu giữ khoáng sản chưa tương thích
với các văn bản pháp luật khác, cụ thể như sau:
–
Điều 15.3 có quy
định: “Đối với khoáng sản có tính tự
cháy phải có biện pháp phòng ngừa, bố trí phương tiện phòng cháy – chữa cháy được
cơ quan phòng cháy – chữa cháy kiểm tra, xác nhận đủ điều kiện an toàn.”
Trong khi đó, Phụ lục IV của Nghị định 79/2014/NĐ-CP quy định các dự án, công
trình phải được thẩm định thiết kế gồm: “Nhà kho hàng hóa, vật tư cháy được hoặc có bao bì cháy được có khối
tích từ 1.000 m3 trở lên”. Đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc việc điều chỉnh quy định
để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
–
Điều 15.4 có quy
định: “khu vực kho, bãi chứa phải được
cơ quan có thẩm quyền cấp phép sử dụng theo quy định“. Quy định này đặt
ra thêm điều kiện và thủ tục hành chính nhưng lại không có quy định cụ thể hơn
về thẩm quyền, nội dung và thủ tục thực hiện. Cơ quan nào nhà nước nào có thẩm
quyền? Việc cấp phép hay không cấp phép dựa trên các tiêu chí nào? Thành phần hồ
sơ, thời gian làm thủ tục như thế nào? Đây đều là các nội dung cần được làm rõ.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
quy định rõ các nội dung trên một cách hợp lý, khả thi, thống nhất hoặc bỏ quy
định trên.
–
Điều 15.4 có quy
định: “Vị trí kho, bãi phải bố trí ra ngoài khu vực ảnh hưởng của dân cư”.
Đây là quy định không minh bạch vì không rõ “khu vực ảnh hưởng của dân
cư” được xác định như thế nào? Khoảng cách bao xa thì được coi là ngoài
khu vực ảnh hưởng? Đề nghị cơ quan soạn
thảo quy định rõ nội dung này.
–
Điều 15.4 có quy
định “Sở Công Thương thẩm định dự án
và cấp giấy phép sử dụng kho, bãi chứa khoáng sản độc hại“. Quy định
này không phù hợp với Luật Đầu tư vì Luật Đầu tư có quy định: “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật
này và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì thực hiện theo quy định
của Luật này“. Do đó, đề nghị
cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng, trong quá trình thẩm
định đầu tư đối với dự án có kho bãi chứa khoáng sản đôc hại thì phải lấy ý kiến
Sở Công Thương.
10. Kinh doanh đối với khoáng sản nhập khẩu, tạm
nhập-tái xuất, chuyển khẩu, dịch vụ quá cảnh, thực hiện hợp đồng gia công sản
phẩm khoáng sản cho thương nhân nước ngoài hoặc đặt gia công khoáng sản tại nước
ngoài
Các quy định tại Điều 18.2, Điều 18.3, và Đièu 18.4 đặt
ra 3 thủ tục hành chính gồm: (1) xin phép xuất khẩu khoáng sản nhập khẩu không
sử dụng hết; (2) xin phép bán ra ngoài khoáng sản thuê nước ngoài gia công chế
biến; (3) đăng ký hợp đồng hợp đồng gia công khoáng sản cho nước ngoài. Tuy
nhiên, Nghị định chưa có quy định cụ thể về thành phần hồ sơ, tiêu chí ra quyết
định và trình tự thủ tục thực hiện. Hồ sơ xin phép gồm những gì? Cơ quan nhà nước
căn cứ vào tiêu chí nào để cấp phép/từ chối? Thời gian làm thủ tục mất bao lâu?…
là những câu hỏi cần được giải đáp. Do đó, đề
nghị cơ quan soạn thảo làm rõ các nội dung trên.
11. Nghĩa vụ báo cáo
Điều 20 quy định doanh nghiệp phải báo cáo về tình
hình hoạt động dự án khai thác khoáng sản cho Bộ Công Thương, Sở Công Thương.
Tuy nhiên, Luật Khoáng sản có quy định tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải
báo cáo kết quả khai thác khoáng sản cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Như vậy, có sự không thống nhất giữa Dự thảo và quy định của
Luật Khoáng sản về nghĩa vụ báo cáo về khai thác khoáng sản.
Điều 20 tiếp tục quy định nghĩa vụ doanh nghiệp báo
cáo hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu khoáng sản cho Bộ Công Thương và Sở Công
Thương. Quy định này là không cần thiết do các thông tin này doanh nghiệp đều
đã thực hiện thông qua các thủ tục hải quan. Bộ Công Thương và Sở Công Thương
có thể lấy lại các thông tin này thông qua cơ quan hải quan mà không cần thiết
phải yêu cầu doanh nghiệp báo cáo lại.
12. Điều khoản chuyển tiếp
Điều 21.3 của Dự thảo đưa ra một quy định mang tính hồi
tố bất lợi cho doanh nghiệp, theo đó yêu cầu các cơ sở chế biến khoáng sản phải điều chỉnh quy mô công suất, công
nghệ đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại Phụ lục 2 kèm theo Nghị định này trước
ngày 31 tháng 12 năm 2020. Việc yêu cầu điều chỉnh về công suất và công nghệ
này sẽ có tác động đặc biệt nghiêm trọng đến hoạt động của các nhà đầu tư đã được
cấp phép. Quy mô công suất và công nghệ là những yếu tố cốt lõi của một dự án đầu
tư và đều đã được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đầu tư. Quy định này không chỉ
bắt tất cả các nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục xin điều chỉnh Giấy chứng nhận
đầu tư đã được cấp mà còn khiến rất nhiều dự án phải được thiết kế, xây dựng lại
từ đầu, gây tốn kém rất nhiều chi phí xã hội. Thêm vào đó, việc đưa ra một quy
định mang tính hồi tố bất lợi về một trong những yếu tố then chốt của dự án như
vậy có thể phát đi tín hiệu rất xấu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
VCCI đề nghị cơ
quan soạn thảo hết sức cân nhắc
việc áp dụng quy định về quy mô công suất, công nghệ đối với các dự án đã được
cấp phép trước khi Nghị định này có hiệu lực mà thay bằng nhiều biện
pháp sau hiệu quả hơn, cụ thể:
–
Chỉ áp dụng quy
định về quy mô công suất và công nghệ đối với các dự án sau khi Nghị định này
có hiệu lực
–
Đối với các dự
án trước khi Nghị định này có hiệu lực có quy mô công suất và công nghệ không
phù hợp thì tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Nếu cơ sở
đó gây ô nhiễm môi trường hoặc để xảy ra tai nạn, sự cố thì áp dụng biện pháp xử
phạt vi phạm hành chính đi kèm với việc yêu cầu điều chỉnh quy mô công suất,
công nghệ. Nếu cơ sở đó hoạt động bình thường, không gây ô nhiễm, sự cố hay tác
động xấu nào khác đến môi trường, xã hội thì cho phép tiếp tục duy trì đến hết
thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư và không cho gia hạn.
13. Thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Điều 21.1.b của Dự thảo quy định thẩm quyền của Bộ
Công Thương trong việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm đối với thực hiện
quy chuẩn, định mức kinh tế – kỹ thuật, công nghệ, kỹ thuật an toàn, vệ sinh
lao động và bảo vệ môi trường trong khai thác mỏ và chế biến khoáng sản trên phạm
vi cả nước theo thẩm quyền. Các nội dung này đều đã có văn bản quy định về thẩm
quyền thanh tra, kiểm tra cho các cơ quan nhà nước khác. Điều 7 của Luật Thanh
tra đưa ra nguyên tắc: Hoạt động thanh
tra không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa
các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Như vậy, Điều 21.1.b
của Dự thảo đã vi phạm nguyên tắc này khi quy định thêm thẩm quyền thanh tra chồng
chéo với thẩm quyền thanh tra đã có.
Về vấn đề này, đề
nghị cơ quan soạn thảo xử lý theo hướng như sau:
–
Thứ nhất, chỉ
quy định thẩm quyền thanh tra của Bộ Công Thương đối với các nội dung mà chưa
có cơ quan nhà nước nào khác đảm nhận
–
Thứ hai, nếu
trong trường hợp cơ quan soạn thảo thấy rằng việc thanh tra của các bộ ngành
khác chưa bảo đảm thì có thể yêu cầu cơ chế bắt buộc phối hợp trong hoạt động
thanh tra (ví dụ, tổ chức đoàn liên ngành) nhằm giảm tần suất thanh tra, kiểm
tra trùng lặp đối với doanh nghiệp.
Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam đối với dự thảo Nghị định về khai thác và kinh doanh khoáng
sản. Rất mong Quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.
Nơi nhận: – Như trên; – Văn phòng – Lưu VT, PC. |
TL. CHỦ TRƯỞNG (Đã ký) Đậu Anh |