VCCI góp ý Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Phòng cháy, chữa cháy

Thứ Hai 09:56 21-04-2014

Kính gửi: Tổng cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự,

an toàn xã hội - Bộ Công an

Trả lời Công văn số 809/BCA-C61 và đề nghị của Bộ Công an về việc góp ý Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy chữa cháy (PCCC) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:

1.     Về các loại giấy phép quy định tại Dự thảo

Dự thảo hiện đang quy định về khá nhiều loại giấy phép (hiểu theo nghĩa loại giấy tờ cần phải làm hồ sơ xin cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc phải gửi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận/ghi nhân – tức phải có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền), ví dụ:

(i)                Các loại giấy phép áp dụng cho đơn vị kinh doanh phòng cháy, chữa cháy (PCCC)

-         Xác nhận đủ điều kiện kinh doanh PCCC (Điều 3)

-         Chứng chỉ hành nghề PCCC (Điều 3)

-         Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ PCCC (Điều 3)

(ii)             Các loại giấy phép áp dụng cho các cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC

-         Văn bản thẩm duyệt về PCCC (Điều 7)

-         Văn bản thẩm định, phê duyệt thiết kế PCCC (Điều 7)

-         Văn bản thông báo cam kết đáp ứng đủ các điều kiện về PCCC trước khi đưa vào hoạt động (Điều 7.1c)

-         Văn bản thông báo cam kết về việc công trình đã được thẩm định, phê duyệt thiết kế và nghiệm thu về PCCC trước khi đưa vào hoạt động (Điều 7.1c)

-         Giấy chứng nhận thẩm duyệt về PCCC (Điều 7.3a)

-         Văn bản trả lời về giải pháp PCCC đối với hồ sơ thiết kế cơ sở (Điều 15.6b)

-         Văn bản thẩm duyệt về PCCC đối với hồ sơ thiết kế kỹ thuật hoặc hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công (Điều 15.6b)

-         Văn bản chấp thuận về địa điểm xây dựng trước khi tiến hành thiết kế công trình (Điều 15.6c)

-         Văn bản nghiệm thu về PCCC trước khi đưa công trình vào sử dụng (Điều 16.5e)

(iii)           Các loại giấy phép áp dụng cho phương tiện giao thông cơ giới

-         Giấy chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ PCCC (Điều 10.1c)

-         Thẩm duyệt, nghiệm thu về PCCC khi chế tạo mới hoặc hoán cải (Điều 10.2)

-         Giấy chứng nhận thẩm duyệt về PCCC (Điều 10.2a)

-         Văn bản nghiệm thu về PCCC (Điều 10.2a)

PCCC là công việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo đảm tính mạng công dân và tài sản của tổ chức, cá nhân, Nhà nước. Vì vậy việc Nhà nước quy định các điều kiện về PCCC và thực hiện việc kiểm soát PCCC là cần thiết.

Mặc dù vậy, việc quy định về quá nhiều loại giấy phép PCCC với cách thức quy định như trong Dự thảo có lẽ cần xem xét lại ít nhất bởi các lý do sau:

-         Nhiều trường hợp Giấy phép trong Dự thảo có thể chuyển sang hình thức quản lý khác không cần giấy phép

Trong thực tiễn quản lý ở nước ta hiện nay, giấy phép không phải là hình thức kiểm soát duy nhất; bên cạnh Giấy phép còn có nhiều hình thức khác như điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, các tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng mà không cần giấy phép…vẫn đảm bảo mục tiêu an toàn mà không gây quá nhiều tốn kém về thời gian, nhân lực, vật lực của cả các cơ quan Nhà nước (trong việc cấp phép) lẫn các tổ chức, cá nhân (trong việc xin phép). Trong xu hướng cải cách thủ tục, cắt giảm thủ tục hành chính của Chính phủ hiện nay, đây là vấn đề rất được nhấn mạnh.

Tuy nhiên, Dự thảo hiện lại đang quy định một số loại giấy phép không thực sự cần thiết và có thể thay thế bằng hình thức quản lý khác đơn giản, tiết kiệm và hiệu quả hơn.

Ví dụ:

+ Đối với các đơn vị kinh doanh PCCC, chỉ cần đáp ứng các điều kiện kinh doanh PCCC theo quy định mà không nhất thiết phải xin Xác nhận đủ điều kiện kinh doanh (tức là điều kiện kinh doanh không cần giấy phép) – Cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm tra định kỳ/đột xuất các đơn vị này về việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh quy định (cách thức hậu kiểm này có ý nghĩa và hiệu quả hơn bởi với việc cấp phép lúc dầu, rất có thể doanh nghiệp chỉ đảm bảo điều kiện lúc đầu mà không duy trì điều kiện đó trong suốt thời gian kinh doanh.

+ Đối với các công trình/phương tiện, việc chủ công trình/phương tiện nộp văn bản thông báo cam kết đã đáp ứng các yêu cầu PCCC về thực chất là không có ý nghĩa. Về mặt pháp luật, dù có hay không có cam kết mọi chủ thể đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật (trong trường hợp này là các điều kiện/yêu cầu về PCCC); và dù trước đó đã có cam kết hay chưa, trách nhiệm của các chủ thể này trong vi phạm và xử lý vi phạm là như nhau. Do đó, đây nên xem là các điều kiện hoạt động mà chủ công trình/phương tiện bắt buộc phải đáp ứng mà không cần phải xin giấy phép dưới dạng “văn bản thông báo cam kết và

-         Một số loại giấy phép có nội dung và mục tiêu trùng lặp dẫn tới các thủ tục, các loại giấy phép không cần thiết

Ví dụ: Đối với các công trình thì:

+ Văn bản thẩm duyệt về PCCC (Điều 7) và Giấy chứng nhận thẩm duyệt về PCCC (Điều 7.3a) có gì khác nhau?

+ Văn bản thẩm định, phê duyệt thiết kế PCCC (Điều 7) và Văn bản trả lời về giải pháp PCCC đối với hồ sơ thiết kế cơ sở (Điều 15.6b), Văn bản thẩm duyệt về PCCC đối với hồ sơ thiết kế kỹ thuật hoặc hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công (Điều 15.6b) có gì khác nhau? ...

-         Một số loại giấy phép thiếu hoàn toàn các quy định về điều kiện cấp phép (trong khi đó về mặt nguyên tắc các điều kiện cấp phép phải được quy định trong văn bản cấp Nghị định; văn bản cấp Thông tư chỉ được phép hướng dẫn về thủ tục, hồ sơ, quy trình mà không được quy định về điều kiện cấp phép)

Ví dụ:

+ Điều kiện nào để cấp Chứng chỉ hành nghề PCCC (Điều 3)?

+ Căn cứ nào để cơ quan có thẩm quyền quyết định cấp hoặc từ chối cấp Văn bản thẩm định, phê duyệt thiết kế PCCC (Điều 7)? Văn bản chấp thuận về địa điểm xây dựng trước khi tiến hành thiết kế công trình (Điều 15.6c)? ...

-         Một số loại giấy phép có quy định về điều kiện không hợp lý/không liên quan, không rõ ràng

Ví dụ:

+ Tại sao hồ sơ dự án, thiết kế đối với các công trình quy định tại Phụ lục IV lại phải có thông tin về “dự toán tổng mức đầu tư” (Điều 15.7) – thông tin này không có liên quan gì tới các điều kiện chuyên môn về PCCC.

+ Tương tự, nội dung thông tin về “tính hợp pháp của khu đất dự kiến xây dựng công trình” không phục vụ gì cho mục đích thẩm định về PCCC đối với địa điểm xây dựng cả….

+ Quy định “có ít nhất 01 người có trình độ…” trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ PCCC có nghĩa là thế nào? (“người” này là lãnh đạo hay người lao động của doanh nghiệp, người này làm việc cho doanh nghiệp dưới hình thức hợp đồng ngắn hạn rồi thôi có được không?...). Hơn nữa, quy định này là khác với nội dung tại Điều 9a của Luật:2. Kinh doanh dịch vụ phòng cháy và chữa cháy phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:a) Người đứng đầu doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của cơ sở kinh doanh dịch vụ phòng cháy và chữa cháy phải có văn bằng, chứng chỉ phù hợp với hoạt động kinh doanh;”

-         Một số loại giấy phép không phù hợp với bản chất của giấy phép đó

Ví dụ:

+ Chứng chỉ hành nghề theo thông lệ chỉ cấp cho cá nhân(bởi loại giấy tờ này nhằm mục đích xác nhận trình độ chuyên môn, vì vậy phải gắn với một cá nhân cụ thể; quy định về chứng chỉ hành nghề liên quan tới tổ chức, nếu có, thực chất là gắn một/một số cá nhân giữ các vị trí cụ thể trong tổ chức đó). Tuy nhiên trong Điều 3 Dự thảo thì chứng chỉ hành nghề lại được cấp cho cơ sở kinh doanh dịch vụ PCCC?

+ Giấy phép liên quan tới phương tiện giao thông cơ giới về nguyên tắc phải gắn với các điều kiện về an toàn PCCC của chính phương tiện đó. Tuy nhiên, Điều 10.2c lại yêu cầu trong hồ sơ gửi cơ quan PCCC về an toàn PCCC của phương tiện lại bao gồm cả “bản sao Giấy chứng nhận đã qua huấn luyện nghiệp vụ PCCC… cấp cho người điều khiển, người làm việc trên phương tiện”.

Trên thực tế trước khi đưa phương tiện vào sử dụng, chủ phương tiện (ví dụ doanh nghiệp vận tải ô tô khách) hầu như chưa xác định lái xe/phụ xe cụ thể nào sẽ làm việc trên phương tiện đó – hơn nữa ngay cả khi đã xác định trước, trong quá trình kinh doanh chủ phương tiện hoàn toàn có thể thay các nhân viên này bằng những người khác. Như vậy quy định phù hợp phải là: Giấy chứng nhận đã qua huấn luyện nghiệp vụ PCCC… cấp cho người điều khiển, người làm việc trên phương tiện bắt buộc phải được xuất trình cho cơ quan PCCC hoặc cơ quan có thẩm quyền khi cơ quan này kiểm tra phương tiện đang hoạt động; không cần nộp Giấy chứng nhận này trong hồ sơ về an toàn PCCC của phương tiện trước khi đưa phương tiện vào sử dụng.

Vì vậy, kính đề nghị Ban soạn thảo rà soát và hệ thống lại tất cả các loại Giấy phép có trong Dự thảo hiện tại, xác định mục tiêu tính chất của mỗi loại Giấy phép và:

-         Bỏ các loại Giấy phép không cần thiết, thay thế bằng điều kiện kinh doanh/vận hành không cần giấy phép (tổ chức cá nhân bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện, nếu hậu kiểm thấy vi phạm thì xử lý), ít nhất là các loại:

+ Xác nhận đủ điều kiện kinh doanh (Điều 3);

+ Các loại Văn bản thông báo cam kết… (Điều 7)

-         Bỏ các loại Giấy phép có nội dung, mục tiêu trùng lặp nhau (trường hợp bản chất là cùng một loại Giấy phép thì cần sử dụng thuật ngữ thống nhất, tránh nguy cơ bị hiểu thành hai hoặc nhiều giấy phép khác nhau);

-         Đối với các loại Giấy phép mà Ban soạn thảo giải trình được sự cần thiết phải quản lý bằng giấy phép thì cần:

+ Bổ sung đầy đủ các quy định về điều kiện cấp phép, về các tiêu chí để cơ quan có thẩm quyền đồng ý hay từ chối cấp phép;

+ Điều chỉnh lại các điều kiện cấp phép và nội dung hồ sơ cấp phép để đảm bảo rằng các điều kiện, thông tin yêu cầu là cần thiết cho việc thẩm định hồ sơ và cấp phép của cơ quan có thẩm quyền PCCC và không vượt ra ngoài các yêu cầu chuyên môn PCCC.

2.     Về một số quy định chưa hợp lý trong Dự thảo

Dự thảo hiện còn chứa một số quy định chưa thực sự hợp lý, ví dụ:

-         Điều kiện đối với doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ phòng cháy và chữa cháy (Điều 3)

Dự thảo quy định điều kiện chung đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, lắp ráp; thi công, lắp đặt hệ thống phòng cháy và chữa cháy:

c) Có nhà xưởng, phương tiện, thiết bị bảo đảm cho hoạt động sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm sau khi sản xuất;

d) Có thiết bị, máy thi công chủ yếu để thi công, lắp đặt hệ thống phòng cháy và chữa cháy.

Về lĩnh vực hoạt động, sản xuất, lắp ráp và thi công lắp đặt là khác nhau. Do đó, điều kiện với hai loại hình kinh doanh này (trong trường hợp doanh nghiệp chỉ kinh doanh hoặc là sản xuất, lắp ráp hoặc là thi công lắp đặt) cần phải khác nhau. Hiện tại, quy định tại điểm c chỉ phù hợp với doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp mà không phù hợp với doanh nghiệp thi công lắp đặt.Tương tự như vậy, điều kiện được nêu tại điểm d không thể áp dụng đánh đồng cho cả hai.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh ngoài khoản 3 đều phải đáp ứng điều kiện: “Có cơ sở vật chất, phương tiện và các điều kiện khác bảo đảm cho hoạt động kinh doanh”. Cách quy định này là không rõ ràng, có thể gây khó khăn cho quá trình thực thi. Hơn nữa, về nguyên tắc thì mọi điều kiện kinh doanh chỉ có thể được quy định ở văn bản do Chính phủ ban hành (theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật doanh nghiệp).

Do đó, kính đề nghị Ban soạn thảo:

+ Nếu cần thiết phải có các điều kiện khác thì phải làm rõ ngay tại Nghị định các điều kiện khác là điều kiện gì?

+ Quy định các điều kiện riêng cho doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp và điều kiện riêng cho doanh nghiệp thi công lắp đặt phù hợp với tính chất của từng loại hoạt động.

-         Điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy đối với công trình cao tầng, nhà khung thép mái tôn (Điều 11)

Điều 23 Dự thảo Luật PCCC (sửa đổi) có quy định mới đối với công trình cao tầng, nhà khung thép mái tôn và được quy định tại Khoản b Điều 11 Dự thảo “b) Tường, vách ngăn và trần treo của đường thoát nạn… không được sử dụng vật liệu trang trí nội thất, vật liệu cách âm, cánh nhiệt là vật liệu dễ cháy.”

Cần làm rõ thế nào là “vật liệu dễ cháy”, những đồ vật nào được coi là “vật liệu trang trí nội thất”?

-         Định mức kinh phí phòng cháy và chữa cháy trong đầu tư, xây dựng (Điều 14)

Theo Dự thảo, liên Bộ Tài chính, Xây dựng, Công an sẽ ban hành định mức kinh phí phòng cháy và chữa cháy trong đầu tư và xây dựng. Không rõ đây là định mức có tính chất bắt buộc hay để tham khảo trong quá trình lập dự án đầu tư, xây dựng? Về mặt nguyên tắc thì các định mức chỉ thích hợp với các trường hợp sử dụng ngân sách Nhà nước, đối với các công trình sử dụng nguồn vốn không phải của Nhà nước thì việc quy định định mức là không thích hợp (bởi với mục tiêu đảm bảo an toàn PCCC thì đã có các quy định đầy đủ về các điều kiện PCCC mà tổ chức, cá nhân phải đáp ứng rồi).

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ định mức này chỉ áp dụng đối với trường hợp sử dụng ngân sách nhà nước, không áp dụng đối với các trường hợp sử dụng ngân sách ngoài Nhà nước.

3. Về hiệu lực thi hành của Nghị định

Dự thảo hiện không có quy định về thời điểm chuyển tiếp việc thực hiện khi các Nghị định bị thay thế (Nghị định 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Điều 1 Nghị định 46/2012/NĐ-CP ngày 22/52012 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy và Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2006 quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc) hết hiệu lực. Điều này có thể gây ra vướng mắc thậm chí là không khả thi, đặc biệt là đối với các công trình/dự án hiện đang tồn tại hoặc đã nộp hồ sơ quy hoạch/dự án cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Nghị định này có hiệu lực, thuộc trường hợp:

Ngoài ra, các quy định về các loại Giấy phép, chứng nhận, chứng chỉ về PCCC của người điều khiển phương tiện, người làm việc trên các phương tiện, và đối với phương tiện cũng cần thời gian để đáp ứng (đào tạo, lấy chứng chỉ, kiểm tra cấp phép), không thể ngay lập tức thực hiện được.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung điều khoản chuyển tiếp quy định rõ thời hạn, thủ tục/cách thức thực thi, áp dụng các điều kiện về PCCC tại Nghị định này trước khi Nghị định có hiêu lực toàn bộ.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy chữa cháy (PCCC) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC. Do thời gian lấy ý kiến quá gấp (05 ngày làm việc), bản góp ý này được thực hiện trên cơ sở ý kiến nhanh/sơ bộ của chuyên gia VCCI và một số hiệp hội, chưa tổng hợp được ý kiến rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ra do Quý Cơ quan chưa gửi các Phụ lục của Dự thảo nên góp ý này cũng chưa bao gồm các nội dung rất quan trọng của Phụ lục (đặc biệt liên quan tới Danh mục các cơ sở, phương tiện thuộc diện quản lý về PCCC).

Vì vậy, mong Quý Cơ quan tạo điều kiện để VCCI tiếp tục thực hiện việc lấy ý kiến và góp ý để hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.



[1] (xem thêm: http://www.dpi.hochiminhcity.gov.vn/HoatDongAnh/PhongDKKD_Khac/Nganh%20nghe%20can%20co%20CCHN.pdf)



Các văn bản liên quan