VCCI góp ý Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu

Thứ Năm 09:07 24-04-2014

Kính gửi: Cục Quản lý đấu thầu

        Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trả lời Công văn số 1007/BKHĐT-QLĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, chuyên gia, có một số ý kiến sau:

1.      Về áp dụng pháp luật trong lựa chọn nhà thầu liên quan trong gói thầu sử dụng vốn ODA, vốn theo các điều ước/thỏa thuận quốc tế (Điều 1.2)

Dự thảo hiện quy định nguyên tắc chung là luật áp dụng đối với các gói thầu thuộc nhóm vốn ODA hoặc vốn ưu đãi theo thỏa thuận/hiệp định là “điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan”. Riêng với các vấn đề về “thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt nội dung về kế hoạch lựa chọn nhà thầu, danh sách nhà thầu, thương thảo hợp đồng…” thì lại áp dụng quy định của Nghị định này.

Quy định này có điểm bất cập sau:

-         Nếu điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan có quy định riêng về cả các vấn đề “thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt nội dung về kế hoạch lựa chọn nhà thầu, danh sách nhà thầu, thương thảo hợp đồng…” thì sẽ phải áp dụng điều ước, thỏa thuận quốc tế chứ không phải Nghị định này.

-         Theo Điều 1 Luật Đấu thầu thì các quy định về đấu thầu trong Luật này và tất nhiên cả các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này chỉ áp dụng đối với đấu thầu dịch vụ, hàng hóa sử dụng vốn Nhà nước. Do đó, quy định việc đấu thầu các gói thầu vốn ODA hoặc vốn ưu đãi theo thỏa thuận/hiệp định  phải áp dụng Nghị định này (kể cả khi chỉ là các vấn đề về “thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt nội dung về kế hoạch lựa chọn nhà thầu, danh sách nhà thầu, thương thảo hợp đồng…”) là không phù hợp với Luật Đấu thầu. Tất nhiên điều này không ngăn cản các hiệp định, thỏa thuận quy định áp dụng Luật Đấu thầu, tuy nhiên khi đó việc áp dụng Luật Đấu thầu thực chất là tuân thủ quy định của hiệp định/thỏa thuận về luật áp dụng.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ khoản 2 Điều 1 Dự thảo.

2.      Về quy định bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu (Điều 2)

Một số quy định trong Điều 2 về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu còn bất cập, ví dụ:

-         Khoản 3 – Các điều kiện để xác định nhà thầu “độc lập về pháp lý”: Cả ba điều kiện nêu tại Điều 2.3 Dự thảo thực chất đều chỉ là các đặc điểm của pháp nhân (theo Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005). Vì vậy nếu chỉ có các điều kiện này thì khoản 3 chỉ cần quy định “nhà thầu phải là pháp nhân riêng” là đủ.

-         Khoản 4 – Các điều kiện để xác định nhà thầu “độc lập về tài chính”:

+ Đối với điều kiện “có tài sản độc lập”: Đây là đặc điểm của pháp nhân, vì vậy nếu Khoản 3 đã quy định “nhà thầu là pháp nhân riêng” thì không cần thiết phải có điều kiện này;

+ Đối với điều kiện “không có cổ phần hoặc vốn góp trên 50%” của nhau: Trong thực tiễn quốc tế và ở nhiều lĩnh vực pháp luật khác, khi xác định quan hệ phụ thuộc (quan hệ có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của các quyết định lựa chọn) thì thậm chí không cần có vốn/cổ phần mà chỉ cần có quyền kiểm soát nào đó với hoạt động của bên kia đã được xem là “quan hệ phụ thuộc” (ví dụ quan hệ “nhà cung cấp duy nhất” hoặc “khách hàng chiến lược”…), còn về khía cạnh tài chính thì nếu có bất kỳ phần vốn/cổ phần nào có quyền bỏ phiếu đều bị xem là phụ thuộc. Vì vậy, tiêu chí “có cổ phần hoặc vốn góp trên 50%” có thể là quá cao.

Đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại quy định này cho phù hợp theo các bình luận nói trên.

3.      Về ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu (Điều 3-6)

-         Điều 3: Cần làm rõ thế nào là “chi phí trong nước” (chú ý Điều 5 Dự thảo chỉ đề cập tới “chi phí sản xuất trong nước của hàng hóa” mà thôi)

-         Điều 4: Chưa có quy định về nguyên tắc ưu đãi đối với gói thầu không phải gói thầu dịch vụ (tư vấn hoặc khác), cũng không phải gói thầu xây lắp

-         Điều 6: Thế nào là “gói thầu xây lắp quy mô nhỏ, đơn giản”?

Đề nghị Ban soạn thảo chú ý bổ sung quy định làm rõ các nội dung trên.

4.      Về Lưu trữ hồ sơ trong quá trình lựa chọn nhà thầu (Điều 10)

Dự thảo quy định thời hạn lưu trữ hồ sơ đối với gói thầu thuộc dự án nhóm A, gói thầu tổ chức đấu thầu tập trung cấp quốc gia, gói thầu mua thuốc theo hình thức đàm phán cấp quốc gia là vĩnh viễn; đối với các gói thầu khác là 20 năm. Một số chuyên gia cho rằng, thời hạn lưu trữ này là chưa hợp lý, quá dài so với pháp luật trong một số lĩnh vực liên quan, ví dụ:

-         Theo Luật Lưu trữ thì đối với một số trường hợp tài liệu có mức độ quan trọng cấp quốc gia (đề án, dự án, chương trình mục tiêu, trọng điểm quốc gia) thì thời hạn lưu trữ là vĩnh viễn, tuy nhiên ở đây chỉ là “đàm phán cấp quốc gia” – không đồng nghĩa với “mức độ quan trọng cấp quốc gia”;

-         Theo pháp luật tố tụng hình sự, hành chính, dân sự thì thời hiệu khởi kiện tối đa cũng chỉ là khoảng 20 năm (đồng nghĩa với việc tài liệu lưu trữ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của một chủ thể nào đó cũng sẽ chỉ cần thiết trong khoảng thời gian tương ứng).

Về mặt thực tế, việc quy định thời hạn lưu trữ quá dài như trong Dự thảo cũng sẽ gây khó khăn cho các đơn vị mời thầu (cơ quan Nhà nước hoặc các doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước) đặc biệt khi các hồ sơ dự thầu thường rất đồ sộ và trong nhiều trường hợp (đặc biệt trong các cuộc đấu thầu rộng rãi, số lượng hồ sơ tham gia thầu có thể là rất lớn).

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo sửa lại quy định về thời hạn lưu trữ này theo hướng:

-         Các tài liệu đấu thầu của nhà thầu trúng thầu được lưu trữ đến khi quyết toán, sau đó chuyển sang chế độ lưu trữ hồ sơ quyết toán theo quy định đối với từng lĩnh vực chuyên ngành phù hợp

-         Các hồ sơ đấu thầu khác được lưu trữ không quá năm năm hoặc đến khi quyết toán nếu thời hạn nào đến trước.

5.      Về Hạn mức chỉ định thầu (Điều 79)

So với quy định hiện hành thì hạn mức chỉ định thầu quy định tại Điều 79 Dự thảo là thấp hơn rất nhiều. Một số ý kiến cho rằng việc giới hạn quy mô nhỏ như tại Dự thảo là chưa hợp lý bởi vì: các gói thầu được lập dựa trên thiết kế bản vẽ thi công chi tiết với đơn giá theo quy định của nhà nước và thường các đơn giá này khá thấp, nếu thực hiện đấu thầu, giá lại được bỏ thấp hơn dự toán sẽ khiến các nhà thầu cắt giảm chất lượng, điều này khiến cho chất lượng của các gói thầu khó được đảm bảo và hiệu quả dự án cũng như quyền lợi của các nhà thầu không được đảm bảo.

Vì vây, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc thêm về vấn đề này và nếu vẫn giữ hạn mức chỉ định thầu thấp như hiện tại thì cần có giải trình đầy đủ hơn về các căn cứ xây dựng các hạn mức mới này.

6.      Về Quy trình chỉ định thầu thông thường (Điều 80)

Để tránh việc của Chủ đầu tư vận dụng quy định về chỉ định thầu để lựa chọn duy nhất một nhà thầu để gửi hồ sơ yêu cầu, tiến hành phê duyệt nhà thầu được chỉ định dẫn đến việc không kiểm soát được giá cũng như các điều kiện mà nhà thầu đưa ra.

Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung nội dung sơ tuyển sơ bộ nhà thầu (áp dụng đối với các gói thầu được chỉ định thầu có giá trị cao hơn mức áp dụng quy định chỉ định thầu rút gọn) trước khi tiến hành phê duyệt nhà thầu được lựa chọn để gửi hồ sơ yêu cầu chính thức. Việc sơ tuyển nhà thầu này tiến hành theo thủ tục đơn giản, thời gian ngắn và tập trung vào 2 nội dung:

Nội dung thứ nhất:  Sơ tuyển năng lực của nhà thầu

Nội dung thứ hai: Sơ tuyển giá chào sơ bộ và các điều kiện sơ bộ của nhà thầu.

Quy trình có thể được thiết kế như sau:

-         Chủ đầu tư gửi yêu cầu sơ bộ đến ít nhất 3 nhà thầu

-         Trong vòng tối đa 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của chủ đầu tư, nhà thầu gửi hồ sơ đề xuất sơ bộ đến chủ đầu tư.

-         Chủ đầu tư đánh giá sơ bộ hồ sơ đề xuất sơ bộ của các nhà thầu và phê duyệt lựa chọn 1 đơn vị có kinh nghiệm và bản chào sơ bộ tốt nhất để gửi hồ sơ yêu cầu chính thức.

-         Nhà thầu sẽ chuẩn bị và nội hồ sơ đề xuất đến chủ đầu tư.

-         Các bước tiếp theo có liên quan.

Trong quy trình chỉ định thầu cần có quy định về quy trình đặc thù riêng đối với trường hợp chỉ định do xử lý tình huống sự cố, bất khả kháng. Tình huống này phải tiến hành ngay để giảm thiểu thiệt hại do đó khó có thể yêu cầu thực hiện chỉ định thầu theo quy trình, tuy nhiên nhà thầu vẫn phải có cam kết nhất định về an toàn kỹ thuật và các yếu tố an ninh …

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn về việc chỉ định thầu trong trường hợp bất khả kháng, Không chỉ cho trường hợp chỉ định thầu, đối với tất cả các hình thức khác, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định giải quyết cho các tình huống không thể thực hiện theo đúng quy trình theo quy định và đồng thời quy định rõ các điều kiện áp dụng cho các trường hợp này.

7.      Lựa chọn nhà thầu qua mạng (Chương VIII)

Việc quy định về hình thức lựa chọn nhà thầu qua mạng tại Dự thảo là phù hợp với yêu cầu hội nhập (các cam kết có thể có trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại tự do mà Chính phủ đang đàm phán hoặc trong Hiệp định về Mua sắm công của WTO mà Việt Nam đang là quan sát viên) và phù hợp với xu thế chung là áp dụng các công nghệ thông tin trong đấu thầu nhằm nâng cao tính minh bạch, tăng tính cạnh tranh và giảm thiểu thủ tục trong đấu thầu.

Tuy nhiên, cũng vì lý do này, các quy định về lựa chọn nhà thầu qua mạng cần bám sát các nguyên tắc tại các văn bản nói trên đồng thời đảm bảo tính khả thi, hợp lý và minh bạch. Rà soát ban đầu cho thấy một số quy định tại Dự thảo liên quan đến lựa chọn nhà thầu qua mạng vẫn chưa thể hiện được tính đặc thù của việc đấu thầu qua mạng và vẫn chưa rõ ràng, cụ thể có thể gây khó khăn trong thực tế triển khai.

-         Chi phí trong đấu thầu qua mạng (Điều 113): Không rõ “chi phí nhà thầu trúng thầu”; “chi phí sử dụng hợp đồng điện tử, sử dụng hệ thống mua sắm điện tử” là chi phí gì? Một trong những lý do để thực hiện đấu thầu trên mạng là giảm thiểu các chi phí cho các bên tham gia đấu thầu và khai thác được nguồn dữ liệu trên mạng, do đó để đảm bảo mục tiêu này, Dự thảo nên đi theo hướng sử dụng nguồn tin miễn phí và giảm thiểu các loại phí.

-         Về đăng ký người sử dụng (Điều 117): Không rõ về hình thức thể hiện của hoạt động đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia quy định tại Điều 117 là như thế nào (hình thức xác nhận của việc đăng ký hợp lệ của Cơ quan vận hành Hệ thống là gì?)? Quy trình đăng ký này nhà thầu chỉ phải đăng ký một lần và được sử dụng cho tất cả các gói thầu mà nhà thầu muốn tham gia hay là mỗi gói thầu nhà thầu lại phải đăng ký một lần?

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về các điểm này, theo hướng đơn giản hóa các thủ tục (ví dụ nếu các thông tin đăng ký nhà thầu chỉ đơn thuần là thông tin cơ bản về nhà thầu, không gắn với nội dung thầu thì nhà thầu chỉ cần đăng ký cho một lần cho mỗi gói thầu và chỉ phải đăng ký lại cho gói thầu sau nếu tại thời điểm đó nhà thầu có thay đổi thông tin đã đăng ký trước đó).

Ngoài ra, Điều 117 Dự thảo quy định về quy trình đăng ký trên mạng tuy nhiên trình tự thủ tục lại thực hiện theo phương thức “truyền thống” như: gửi hồ sơ theo đường công văn đến Cơ quan vận hành Hệ thống; phương thức xử lý quy trình đăng ký tương tự như quy trình cấp phép truyền thống, không có tính chất của hoạt động trên môi trường điện tử.

Đề nghị Ban soạn thảo thiết kế quy trình đăng ký này theo hướng tự động (yêu cầu những nội dung cần cung cấp, khi điền đủ các thông tin này người đăng ký sẽ tự động được chấp nhận).

-         Về nộp hồ sơ dự thầu (Điều 120): Dự thảo quy định việc nộp hồ sơ dự thầu có thể nộp một phần qua Hệ thống, một phần in gửi theo đường công văn hoặc gửi trực tiếp đến bên mời thầu trước thời điểm đóng thầu. Tuy nhiên, Dự thảo lại không có quy định về việc mở thầu trong các trường hợp hồ sơ vừa nộp trực tuyến vừa nộp theo phương thức truyền thống này. Hơn nữa, việc quy định nộp hồ sơ vừa theo Hệ thống vừa nộp trực tiếp khiến cho việc đấu thầu trở nên phức tạp và không còn ý nghĩa của việc đấu thầu qua mạng.

Do đó, đối với các trường hợp đấu thầu qua mạng, đề nghị Ban soạn thảo  quy định nộp hồ sơ toàn bộ trên Hệ thống.

-         Một số quy định liên quan đến lựa chọn nhà thầu qua mạng chưa rõ ràng:

+ Không rõ “thành phần cơ bản” của hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất là những tài liệu nào?

+ Không rõ về các căn cứ xác định mốc thời gian được quy định tại Điều 115, 116 Dự thảo: “trường hợp tệp tin có thiết lập mã số bí mật hoặc thiếu phông chữ hoặc thiếu phần mềm phù hợp để mở và đọc, bên mời thầu phải thông báo cho nhà thầu biết và đề nghị trong thời gian tối đa là 04 giờ, …” (điểm a khoản 3 Điều 115), không rõ 04 giờ tính từ thời điểm nào? Không rõ thời gian nào được cho là “thời gian làm việc trong ngày” (điểm c khoản 2 Điều 116)

+ Không rõ về cách thức rút hồ sơ dự thầu trên mạng quy định tại Điều 121 Dự thảo?

Đề nghị Ban soạn thảo rà soát, làm rõ tất cả các quy định còn chưa rõ ràng này để đảm bảo tính khả thi, chặt chẽ và công bằng trong quá trình thực hiện.

8.      Hợp đồng (Chương IX)

-         Về Đồng tiền (Điều 129): Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ đồng tiền áp dụng trong trường hợp đấu thầu trong nước và đồng tiền áp dụng trong trường hợp đấu thầu quốc tế để thống nhất với quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.

-         Về tạm ứng hợp đồng (Điều 132):

+ Khoản 5 quy định “Chủ đầu tư có trách nhiệm cùng với nhà thầu tính toán mức tạm ứng hợp lý, quản lý việc sử dụng vốn tạm ứng đúng mục đích, đúng đối tượng, có hiệu quả …”. Quy định này là không cần thiết bởi vì chủ đầu tư đã có bảo lãnh tiền tạm ứng của nhà thầu nên không cần phải can thiệp vào việc sử dụng tiền tạm ứng của nhà thầu, trong trường hợp vi phạm thì Chủ đầu tư có quyền thu hồi tiền tạm ứng. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại khoản 5 Điều 132.

+ Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ hơn về kế hoạch tạm ứng và mức tạm ứng tại khoản 6 theo hướng: kế hoạch tạm ứng bao nhiêu lần, mỗi lần bao nhiêu % và mức tạm ứng tối đa là bao nhiêu?

-         Đề nghị Ban soạn thảo quy định thế nào được cho là “Hợp đồng có quy mô lớn” quy định tại khoản 3 Điều 138 và khoản 2 Điều 139 Dự thảo.

9.      Đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu và tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp (Chương XI)

Theo quy định tại Chương XI, các chủ thể tham gia vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu (để cấp chứng chỉ đào tạo/hành nghề về đấu thầu cho các tổ chức, cá nhân không phải nhà thầu, nhà đầu tư theo quy định tại Điều 16-19 Luật Đấu thầu) đều phải đáp ứng các điều kiện và phải trải qua quá trình xét duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mặc dù các yêu cầu kiểm soát đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu là quy định của Luật Đấu thầu và Nghị định này chỉ hướng dẫn chi tiết Luật, xét về bản chất thì dường như việc kiểm soát một cách chặt chẽ (bằng các điều kiện kinh doanh không cần giấy phép) đối với hoạt động đào tạo này không thật sự cần thiết (bởi khác với đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực như y tế, phòng cháy chữa cháy, ngân hàng… việc đào tạo về đấu thầu cũng như các sản phẩm của việc đào tạo này không tạo ra nguy cơ/rủi ro lớn cho xã hội tới mức cần phải kiểm soát như vậy).

Do đó, trong tương lai có lẽ cần xem xét điều chỉnh/sửa đổi quy định về vấn đề này trong Luật Đấu thầu theo hướng giảm bớt mức độ kiểm soát đối với hoạt động này.

Trong khi chưa thể sửa đổi Luật ngay thì cách tiếp cận thích hợp trong vấn đề này tại Dự thảo là quy định các điều kiện tối thiểu, làm rõ và giới hạn ở các yêu cầu của Luật chứ không triển khai theo hướng đặt các điều kiện thắt chặt như Dự thảo hiện tại.

Vì vậy, một số nội dung trong Dự thảo cần được cân nhắc điều chỉnh lại:

a.      Cơ sở đào tạo về đấu thầu:

-          Về điều kiện: Dự thảo quy định 02 nhóm điều kiện đối với cơ sở đào tạo về đấu thầu, bao gồm điều kiện để được công nhận là cơ sở đào tạo về đấu thầu (Điều 147) và điều kiện để được đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu (Điều 149). Nói cách khác, theo quy định tại Dự thảo thì việc một cơ sở được công nhận là cơ sở đào tạo về đấu thầu không đồng nghĩa với việc cơ sở đó được phép tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu.

Cách quy định như vậy khiến việc xem xét công nhận tổ chức đáp ứng các điều kiện đối với cơ sở đào tạo về đấu thầu bị hạn chế về hiệu lực, đồng thời khiến việc thực hiện đào tạo về đấu thầu trở nên khó khăn. Ngoài ra, một số điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 149 đã được quy định và xem xét tại Điều 147 (ví dụ các điều kiện về tài liệu giảng dạy)...

Hơn nữa, Dự thảo còn đặt thêm những điều kiện mới, không có trong Luật Đấu thầu, ví dụ:

+ Điều 149.1 quy định điều kiện “có Giấy CNĐKKD/QĐTL…. có (ghi) ngành nghề được phép hoạt động, kinh doanh là tổ chức đào tạo nghiệp vụ đấu thầu” (theo Luật Đấu thầu thì chỉ cần tổ chức được thành lập hợp pháp là được);

+ Điều 149.2 và 149.3 quy định các điều kiện đối với bộ máy quản lý, quy trình quản lý và kiếm soát chất lượng (Luật Đấu thầu không nêu các điều kiện này)

Vì vậy, để đảm bảo phù hợp với Luật Đấu thầu, đề nghị Ban soạn thảo

+ chuyển các điều kiện nêu tại khoản 1 Điều 149 vào Điều 147 để thống nhất các điều kiện đối với cơ sở đào tạo về đấu thầu;

+ bỏ các điều kiện tại các khoản 1, 2, 3 Điều 149 Dự thảo.

-         Về tính minh bạch trong các quy định về điều kiện: Các quy định về điều kiện đối với cơ sở đào tạo về đấu thầu còn chung chung chưa đủ cụ thể, rõ ràng vì vậy, có thể tạo dư địa cho tình trạng nhũng nhiễu của cán bộ nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành các thủ tục hành chính: như thế nào được cho là “có bộ máy quản lý đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn và nghiệp vụ để tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng, lưu trữ hồ sơ học viên, hồ sơ tài liệu liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu” (chuyên môn và nghiệp vụ gì? Ai là người phải đáp ứng điều kiện này? Bộ máy có cơ cấu, tổ chức như thế nào? …); tài liệu như thế nào được cho là phù hợp với chương trình khung theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền? Do đó đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể, có thể định lượng được đối với các điều kiện đối với cơ sở đào tạo về đấu thầu quy định tại Điều 147.

-         Về thủ tục hành chính: trình tự thủ tục để cơ sở đào tạo được công nhận đáp ứng đầy đủ điều kiện chưa rõ ràng và thiếu minh bạch, đó là: thiếu quy định về thời hạn mà cơ quan quản lý nhà nước tiến hành giải quyết Hồ sơ đề nghị công nhận là cơ sở đào tạo về (thời gian nhận hồ sơ và yêu cầu hoàn thiện nếu hồ sơ thiếu tài liệu và chưa hợp lệ; thời gian trả lời sau khi nhận hồ sơ hợp lệ; …); không rõ về hình thức công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ sở đào tạo đủ điều kiện (là giấy chứng nhận hay chỉ cần tên của cơ sở được đăng tải trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là được?).

Tương tự, trong trình tự, thủ tục công nhận là giảng viên về đấu thầu thiếu quy định về thời hạn mà cơ quan quản lý nhà nước tiến hành giải quyết hồ sơ và không rõ hình thức công nhận là gì (chứng chỉ hay là hình thức nào khác)?

-         Về yêu cầu cập nhật kiến thức:

Theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 152 Dự thảo thì “không thường xuyên cập nhật kiến thức, cơ chế, chính sách pháp luật trong trường hợp có chính sách mới” giảng viên sẽ bị rút tên khỏi hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Quy định này là thiếu tính khả thi, bởi làm thế nào để biết được điều này, do đó đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại điểm b khoản 5 Điều 152.

-         Về nghĩa vụ báo cáo:

Theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 148, khoản 4 Điều 149; điểm  khoản 5 Điều 151 Dự thảo thì:

+ Cơ sở đào tạo về đấu thầu phải có nghĩa vụ báo cáo định kỳ hàng năm hoặc báo cáo đột xuất về hoạt động đấu thầu về tình hình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của mình; báo cáo kết quả đào tạo sau khi kết thúc mỗi khóa đào tạo.

+ Giảng viên về đấu thầu có trách nhiệm báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình hoạt động giảng dạy về đấu thầu của mình.

Quy định về nghĩa vụ báo cáo của các chủ thể trên là chưa hợp lý và tạo gánh nặng về thủ tục hành chính của các doanh nghiệp, bởi vì: trong báo cáo định kỳ hàng năm về hoạt động đấu thầu, tình hình đào tạo bồi dưỡng của cơ sở đào tạo về đấu thầu đã bao gồm các nội dung của kết quả của mỗi khóa đào tạo và tình hình hoạt động giảng dạy về đấu thầu của các giảng viên. Do đó, việc yêu cầu đồng thời cơ sở đào tạo và giảng viên cùng báo cáo về hoạt động đào tạo, giảng dạy là trùng lặp về nội dung, vì vậy là không cần thiết. Hơn nữa, việc yêu cầu mỗi khóa đào tạo đều phải báo cáo trong khi định kỳ hàng năm cơ sở đào tạo đã phải báo cáo về tình hình đào tạo rồi là không cần thiết, tạo thêm nhiều thủ tục cho doanh nghiệp. Mặt khác, yêu cầu cơ sở đào tạo phải báo cáo về tình hình đấu thầu là không hợp lý, bởi vì nằm ngoài chức năng, nhiệm vụ của cơ sở này, hơn nữa không rõ tình hình đấu thầu ở đây được hiểu là gì?

Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định cơ sở đào tạo phải báo cáo kết quả đào tạo khi kết thúc mỗi khóa học quy định tại khoản 4 Điều 149 và giảng viên phải “báo cáo định kỳ hàng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu tình hình hoạt động giảng dạy về đấu thầu của mình” quy định tại điểm c khoản 5 Điều 151.

b.      Tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp

-         Điều kiện về chủ thể:

Theo quy định tại Điều 32 Luật Đấu thầu thì “tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp bao gồm đại lý đấu thầu, đơn vị sự nghiệp được thành lập với chức năng thực hiện đấu thầu chuyên nghiệp”. Như vậy, tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp chỉ có thể là đại lý đấu thầu hoặc đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 154 Dự thảo quy định tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp có thể chỉ cần là đơn vị “tư vấn đấu thầu” hoặc “có chức năng thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về đấu thầu trong đó có đấu thầu tập trung (nếu có)”. Quy định này là chưa thống nhất với Luật Đấu thầu, do đó đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại Điều 154.1 cho phù hợp.

-         Điều kiện về nội dung:

Điều 32 Luật Đấu thầu không quy định về điều kiện của tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp mà chỉ quy định “việc thành lập và hoạt động của đại lý đấu thầu thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp” (tức là chỉ cần đăng ký kinh doanh theo pháp luật doanh nghiệp nói chung). Ngoài ra cũng theo Điều này thì tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp có thể hoạt động dưới hình thức đại lý đầu thầu. Từ đó có thể hiểu rằng Luật không đặt ra điều kiện gì đối với tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp cả mà là tuân theo pháp luật doanh nghiệp nói chung.

Do đó, việc quy định áp đặt điều kiện để trở thành tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp tại Điều 154 Dự thảo dường như là chưa thống nhất với quy định tại Luật Đấu thầu.

-         Góp ý tương tự như mục a, các quy định về điều kiện cthủa tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp; trình tự thủ tục công nhận là tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp còn chung chung, thiếu cụ thể, rõ ràng.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn.

Các văn bản liên quan