VCCI góp ý DTNĐ sửa đổi, bổ sung Nghị định 20/2011/NĐ-CP về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp

Thứ Tư 15:41 14-12-2016

Kính gửi: Vụ Chính sách
thuế, Bộ Tài chính

Trả lời Công văn số 17139/BTC-CST của
Bộ Tài chính ngày 02/12/2016 về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 20/2011/NĐ-CP ngày 23/3/2011 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày
24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (sau đây gọi
tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến như
sau:

Về cơ bản các quy định sửa đổi, bổ
sung tại Dự thảo là hợp lý, phù hợp với các quy định tại Nghị quyết
28/2016/QH14[1],
các quy định về thủ tục hành chính liên quan đến miễn thuế được thiết kế tạo
thuận lợi cho đối tượng được miễn thuế.

Tuy nhiên, để hoàn thiện, đề nghị Ban
soạn thảo cân nhắc quy định sau:

1.      Đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều
1 Nghị định 20 (được sửa đổi tại khoản 1 Điều 1 Dự thảo) thì hộ gia đình, cá
nhân bao gồm:


(1)
Những người có hộ khẩu thường trú tại địa phương;


(2)
Những người có nguồn sống chính bằng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, làm muối được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là cư trú
lâu dài tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú;


(3)
Những hộ gia đình, cá nhân trước đây hoạt động trong các ngành, nghề phi nông
nghiệp và có hộ khẩu thường trú tại địa phương nay không có việc làm;


(3)
Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, công nhân và bộ đội nghỉ mất sức hoặc
nghỉ việc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giảm biên chế hưởng trợ cấp một lần hoặc
hưởng trợ cấp một số năm về sống thường trú tại địa phương;


(4)
Con của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân sống tại địa phương đến tuổi
lao động nhưng chưa có việc làm

Việc xác định đối tượng mà Nhà nước
giao hoặc công nhận đất để sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả đất được thừa kế,
cho tặng, nhận chuyển quyền sử dụng đất, sẽ được miễn thuế sử dụng đất nông
nghiệp theo quy định trên có một số điểm chưa rõ ràng, cụ thể:


Đối
tượng (1) có thể được hiểu là tất cả những người có hộ khẩu thường trú tại địa
phương làm bất kì nghề nào (sản xuất nông, lâm, nghiệp hay phi nông nghiệp, miễn
có đất sản xuất nông nghiệp) đều có thể là đối tượng được miễn thuế


Đối
tượng (2), (3): được hiểu là trong những người có hộ khẩu thường trú tại địa
phương chỉ có một số người (có đất sản
xuất nông nghiệp) được miễn thuế, đó là: những người trước làm nghề phi nông
nghiệp, nay không có việc làm; cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, bộ đội
nghỉ mất sức, tinh giảm biên chế, hưởng trợ cấp một lần.

Như vậy, có
thể thấy, đối tượng (1) đã bao trùm
các đối tượng (2), (3) hoặc tạo ra cách hiểu, những đối tượng là đối tượng thường
trú khác không thuộc trường hợp (2), (3) có đất sản xuất nông nghiệp sẽ không
được hưởng chính sách miễn thuế sử dụng đất.


Đối
tượng (4): đưa đến cách hiểu con của những đối tượng không phải là cán bộ, công chức, viên chức, công nhân sống tại địa
phương, đến tuổi lao động (có đất sản xuất nông nghiệp), sẽ không thuộc đối tượng
được hưởng chính sách miễn thuế. Như vậy, dường như có sự phân biệt đối xử giữa
các đối tượng được miễn tiền sử dụng đất, vì con của nông dân, những người làm
nghề phi nông nghiệp sẽ không được miễn tiền sử dụng đất.

Các đối tượng được xác định tại điểm
a khoản 3 Điều 1 Nghị định 20 gần như tương ứng với các đối tượng sẽ được Nhà
nước xem xét giao đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật đất đai. Tuy
nhiên, Dự thảo này lại hướng dẫn về các đối tượng được miễn thuế sử dụng đất,
do đó, cách thiết kế theo hướng liệt kê các đối tượng trên tại Dự thảo sẽ tạo
ra các cách hiểu ở trên.

Do đó, để đảm bảo tính thống nhất và
hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định tại điểm a khoản 3 Điều 1
Nghị định 20 theo hướng:


Bỏ
quy định liệt kê về hộ gia đình, cá nhân;


Dẫn
chiếu tới quy định của pháp luật về đất đai về các đối tượng là hộ gia đình, cá
nhân được Nhà nước giao hoặc công nhận để sản xuất nông nghiệp.


Trong
trường hợp vẫn quy định cụ thể các đối tượng là hộ gia đình, cá nhân được miễn
thuế sử dụng đất ngay tại Dự thảo thì đề nghị quy định rõ ràng và giải quyết
các cách hiểu xung đột ở trên.

2.      Về thủ tục hành chính liên quan đến việc miễn thuế

Việc bổ sung đối tượng miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp
theo Nghị quyết 28 thì đối tượng phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp là rất
ít. Hiện nay, ngành thuế đã có hệ thống cơ sở dữ liệu về người nộp thuế. Do vậy,
để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí hành thu của cơ quan thuế,
công việc của chính quyền Uỷ ban nhân dân cấp xã  cũng như chi phí tuân thủ của người nộp thuế,
các thủ tục hành chính cần được đơn giản hóa theo hướng:



quan Thuế xác định danh sách cũng như số thuế được miễn của từng người nộp thuế,
gửi xuống Ủy ban nhân dân cấp xã (bởi, cơ quan thuế gần như có đầy đủ các dữ liệu
về người nộp thuế cũng như số thuế phải nộp của từng người);


Ủy
ban nhân dân cấp xã sẽ rà soát danh sách của người miễn thuế, đồng thời thông
báo công khai cho người dân được biết. Nếu Ủy ban nhân dân cấp xã cũng như người
dân không có ý kiến đối với danh sách này trong một khoảng thời gian ấn định,
thì cơ quan thuế sẽ ban hành quyết định miễn thuế.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 20/2011/NĐ-CP ngày 23/3/2011 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của
Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Rất mong Quý Cơ quan cân
nhắc trong quá trình sửa đổi nội dung Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn.

 


[1]
Nghị quyết 28/2016/QH14 ngày 11/11/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
quyết số 55.2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp