VCCI góp ý DTNĐ sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ số 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón

Thứ Tư 18:00 02-11-2016

Kính gửi: Cục Hóa chất
– Bộ Công Thương

Trả lời Công văn số 9439/BCT-HC của Bộ
Công Thương ngày 05/10/2016 về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 202/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ
về quản lý phân bón (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như
sau:

1.      Điều kiện sản xuất, gia công, sang chiết, đóng gói phân bón

a.
Điều kiện sản xuất phân bón (khoản 9 Điều 1 Dự thảo sửa đổi Điều 8 Nghị định
202)

Theo quy định tại Dự thảo thì để được
cấp phép sản xuất phân bón, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau:


(1)
Có địa điểm sản xuất phân bón được cơ quan có thẩm quyền cho phép (khoản 1)


(2)
Có danh mục máy thiết bị, có hóa đơn mua bán máy thiết bị để chứng minh nguồn gốc
(khoản 3)


(3)
Có bản kê khai loại nguyên liệu, phụ gia đầu vào tương ứng với từng loại phân
bón sản xuất, phù hợp với công nghệ sản xuất. Có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng về
nguyên liệu và phụ gia (khoản 6)


(4)
lựa chọn 1 trong 2 phương án (khoản 7):

Phương án 1:
Có phòng thử nghiệm, phân tích được công nhận hoặc có thỏa thuận với tổ chức thử
nghiệm, phân tích được chỉ định hoặc công nhận và đã đăng ký lĩnh vực hoạt động
thử nghiệm, phân tích theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng
hóa để quản lý chất lượng. Đến tháng 12 năm 2017, các tổ chức, cá nhân sản xuất
phân bón phải có phòng thử nghiệm, phân tích được công nhận để đánh giá các chỉ
tiêu phân bón do mình sản xuất

Phương án 2:
Tổ chức, cá nhân sản xuất phân bón có chỉ tiêu dinh dưỡng đa lượng phải có
phòng thử nghiệm phân tích được các chỉ tiêu dinh dưỡng đa lượng của phân bón
do mình sản xuất, sử dụng phương pháp thử phù hợp với điều kiện cụ thể của cơ sở.
Đối với các chỉ tiêu chất lượng khác, tổ chức, cá nhân phải có phòng thử nghiệm,
phân tích hoặc có hợp đồng với tổ chức thử nghiệm được chỉ định có phạm vi phép
thử được chỉ định phù hợp để quản lý chất lượng sản phẩm

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét các điều kiện trên
ở những điểm sau:


Về
điều kiện (1): Chấp thuận/cho phép về địa điểm sản xuất về bản chất là một loại
giấy phép (giấy phép con). Theo pháp luật về đầu tư thì quy định về giấy phép
phải bao gồm các nội dung cụ thể về điều kiện cấp phép, trình tự, thủ tục cấp
phép. Trong khi đó, Nghị định lại không có bất kỳ quy định nào về vấn đề này (trình
tự, thủ tục nào để được chấp thuận về địa điểm sản xuất? hồ sơ bao gồm những
gì? Cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hay từ chối dựa trên tiêu chí nào? Cơ quan
có thẩm quyền trong trường hợp này cụ thể là cơ quan nào?…). Việc thiếu vắng
những quy định này không chỉ không bảo đảm yêu cầu của Luật Đầu tư mà còn có
nguy cơ lớn tạo dư địa tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Hơn nữa, bản
thân điều kiện phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về địa
điểm sản xuất là chưa hợp lý. Nếu việc cho phép này liên quan đến vấn đề ô nhiễm
môi trường do hoạt động sản xuất phân bón gây ra, thì chính sách nên đi theo hướng,
quy hoạch về địa điểm sản xuất phân bón ở địa phương và doanh nghiệp chỉ cần
xây dựng nhà máy sản xuất phân bón phù hợp với quy hoạch là có thể được cấp
phép mà không cần phải trải qua một bước “xin phép” cơ quan có thẩm quyền về địa
điểm sản xuất nữa.

Để hạn chế
tình trạng “xin – cho”, phát sinh những giấy phép con bất hợp lý, gây khó khăn
cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định điều kiện
(1), tức là bỏ đoạn quy định trên tại khoản 1 Điều 8 (được sửa đổi).

Góp ý tương tự
đối với điều kiện kinh doanh sang chiết, đóng gói phân bón, kinh doanh phân
bón, đề nghị bỏ quy định “có địa điểm san chiết, đóng gói được cơ quan
có thẩm quyền cho phép” tại khoản 1 Điều 8c; “có địa điểm kinh doanh phân bón
được cơ quan có thẩm quyền cho phép” tại khoản 1 Điều 15 (sửa đổi).


Về
điều kiện (2): Không rõ mục tiêu quản lý nhà nước đối với quy định này là gì?
Các máy thiết bị và quy trình công nghệ phải có nguồn gốc như thế nào thì mới đủ
điều kiện để được cấp phép?

Nếu điều kiện
này là để bảo đảm máy móc thiết bị đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng (không sử dụng
các loại máy móc cũ nát, công nghệ lạc hậu gây ô nhiệm…) thì đây là quy định
không cần thiết bởi vấn đề này đã được kiểm soát bằng các tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật đang có (trong các văn bản pháp luật liên quan tới tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật), và cả các quy định khác trong Dự thảo này (ví dụ quy định “máy thiết
bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn và thiết bị đo lường thử nghiệm phải được
kiểm định, hiệu chuẩn, hiệu chỉnh theo quy định” tại khoản 3 Điều 8 được sửa đổi).

Hơn nữa, vấn
đề về nguồn gốc của máy móc thiết bị hoàn toàn không liên quan gì tới vấn đề về
chất lượng máy móc thiết bị nói trên. Cơ quan có thẩm quyền cũng không có căn cứ
gì để từ chối máy móc thiết bị vì lý do nguồn gốc (đặc biệt, nếu nguồn gốc này
là nước xuất xứ thì vấn đề này thậm chí có thể vi phạm các nguyên tắc chính
sách trong thương mại như tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hội nhập).

Đề nghị
Ban soạn thảo
bỏ quy
định này tại khoản 3 Điều 8 (sửa đổi).


Về
điều kiện (3): tại thời điểm cấp phép yêu cầu doanh nghiệp phải xuất trình “bản
kê khai loại nguyên liệu, phụ gia đầu vào tương ứng với từng loại phân bón sản
xuất, phù hợp với công nghệ sản xuất. Có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng về nguyên liệu
và phụ gia” là chưa hợp lý, bởi ít nhất các lý do:

+ Đây là các
vấn đề của sản xuất, tại thời điểm xin cấp phép (tức là chưa có giấy phép, chưa
bắt đầu sản xuất) doanh nghiệp không thể kê khai chi tiết tất cả các yếu tố này
(đặc biệt là nguồn gốc xuất xứ cụ thể);

+ Kể cả có kê
khai dự kiến nguyên phụ liệu đầu vào thì trong quá trình sản xuất  những yếu tố này có thể sẽ thay đổi, biến động,
vì vậy dù có buộc kê khai thì quy định này cũng sẽ không mang lại hiệu quả quản
lý nào cho Nhà nước- chú ý là cơ quan quản lý Nhà nước không thể buộc doanh
nghiệp sau đó phải kinh doanh theo đúng các vấn đề kê khai bởi như vậy sẽ là
can thiệp vào quyết định kinh doanh của doanh nghiệp, vi phạm quy định về tôn
trọng quyền tự quyết của chủ thể kinh doanh quy định trong Luật Doanh nghiệp và
Luật Đầu tư.

Hơn nữa, nếu
mục tiêu của quy định này là nhằm quản lý chất lượng của phân bón thì quy định
hiện tại đã đủ để kiểm soát được sản phẩm phân bón. Bởi, phân bón được xếp vào
sản phẩm Nhóm 2, trước khi đưa sản phẩm ra thị trường doanh nghiệp phải công bố
hợp quy, đồng nghĩa với việc các sản phẩm được lưu thông trên thị trường đều
phù hợp với các quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo chất lượng theo quy định.

Do đó, đề
nghị Ban soạn thảo
bỏ quy định tại khoản 6 Điều 8 (sửa đổi)


Về
điều kiện (4): Như đã phản ánh ở trên, phân bón trước khi đưa ra thị trường
doanh nghiệp sẽ bắt buộc phải công bố hợp quy, có nghĩa là các chỉ tiêu phân
bón sẽ được phân tích đánh giá bởi phòng thử nghiệm, phân tích được công nhận.
Hiện nay, pháp luật cho phép các tổ chức chứng nhận sự phù hợp thực hiện hoạt động
chứng nhận hợp quy, do đó, doanh nghiệp không cần thiết phải có phòng thử nghiệm,
phân tích riêng mà có thể sử dụng dịch vụ do các tổ chức chứng nhận sự phù hợp
cung cấp. Thậm chí, do thị trường các dịch vụ này hiện nay là tương đối mở, cạnh
tranh cao (nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ), không cần thiết phải có thỏa thuận
trước giữa người sản xuất phân bón với các tổ chức chứng nhận sự phù hợp, phòng
thử nghiệm… (bất kỳ khi nào có nhu cầu người sản xuất đều có thể có được dịch vụ
này)

Như vậy giải pháp
tốt nhất là bỏ điều kiện này. Nếu có lý do giải trình thuyết phục về việc cần
giữ điều kiện này thì phương án 1 là phù hợp hơn trong 02 phương án, tuy nhiên đề
nghị Ban soạn thảo
bỏ yêu cầu “đến tháng 12 năm 2017, các tổ chức, cá nhân
sản xuất phân bón phải có phòng thử nghiệm, phân tích được công nhận để đánh
giá các chỉ tiêu phân bón do mình sản xuất”.

b.
Điều kiện gia công phân bón (khoản 10 Điều 1 Dự thảo bổ sung Điều 8c)

Dự thảo quy định điều kiện gia công
phân bón là:


Bên
đặt gia công phân bón chỉ được đặt gia công chủng loại phân bón chưa có máy thiết bị để sản xuất (khoản
2);


Tổng
số lượng nhận gia công từng loại phân bón không
được vượt quá công suất
đã được cấp phép (khoản 3)



hợp đồng gia công phân bón phải được lập thành văn bản, ghi rõ thông tin Bên đặt
gia công và Bên nhận gia công, chủng loại, số lượng phân bón đặt gia công và phải
thực hiện theo các quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế (khoản 4)

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét về các quy định
trên ở một số điểm sau:


Về
nguyên tắc, việc đặt và nhận giao công là một hoạt động có tính chất giao dịch
tư, tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng của mỗi bên. Tuy nhiên, vì đối tượng của
gia công đây là “phân bón” – loại hàng hóa cần sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước
xuất phát từ khả năng tác động của loại hàng hóa này tới các lợi ích công cộng khi
sử dụng, việc đặt ra một số ràng buộc đối với các chủ thể giao dịch liên quan tới
gia công phân bón có thể là hợp lý. Mặc dù vậy, biện pháp kiểm soát chủ thể, nếu
có, chỉ nên giới hạn ở mục tiêu bảo đảm chất lượng sản phẩm và rằng các sản phẩm
này được sản xuất bởi các chủ thể đáp ứng điều kiện sản xuất phân bón.

Yêu cầu “bên
đặt gia công phân bón chỉ được đặt gia công chủng loại phân bón chưa có máy thiết
bị để sản xuất” hoàn toàn không nằm trong hoặc có liên hệ gì với các mục tiêu
kiểm soát nói trên, do đó dường như là sự can thiệp quá mức cần thiết của Nhà
nước vào hoạt động giao dịch tư giữa các chủ thể này cũng như quyền tự chủ kinh
doanh của doanh nghiệp.

Trên thực tế,
mục tiêu kiểm soát nói trên đã được bảo đảm bằng các quy định khác tại Dự thảo (ví
dụ quy định bên nhận gia công phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép sản xuất
phân bón và quy định sản phẩm phân bón phải được công bố hợp quy trước khi đưa
ra thị trường).

Vì vậy, đề
nghị Ban soạn thảo bỏ
quy định “Bên đặt gia công phân bón chỉ được đặt gia
công chủng loại phân bón chưa có máy thiết bị để sản xuất” tại khoản 2 Điều 8c.


Quy
định này mâu thuẫn với quy định tại Điều 8 (được sửa đổi) về điều kiện sản xuất
phân bón, các điều kiện để xem xét cấp phép đối với sản xuất phân bón (theo Điều
8 sửa đổi thì công suất sản xuất phân bón không phải là tiêu chí để xem xét cấp
phép).

Hơn nữa, bản
thân việc Nhà nước kiểm soát/quản lý công suất sản xuất cụ thể của doanh nghiệp
(doanh nghiệp chỉ được phép sản xuất với công suất cố định) là bất hợp lý bởi:

+ Công suất sản
xuất có thể thay đổi tùy thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Các máy thiết bị và quy trình công nghệ của doanh nghiệp cũng có thể được
thay đổi, nâng cấp vì vậy mà công suất có thể sẽ thay đổi (miễn là các máy móc
thiết bị của doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật yêu cầu). Đây
là quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp đã
quy định;

+ Nếu kiểm
soát công suất thì đồng nghĩa với việc mỗi lần thay đổi công suất sản xuất
doanh nghiệp lại phải thay đổi giấy phép sẽ tạo ra gánh nặng lớn về thủ tục
hành chính cho doanh nghiệp.

Rõ ràng là việc
quản lý công suất (trong giấy phép cho hoạt động sản xuất) là bất hợp lý, tạo
thêm nhiều thủ tục hành chính, cùng với đó, việc kiểm soát lượng gia công theo
công suất này (trong điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, cho hoạt động
gia công) cũng là không hợp lý và can thiệp quá sâu vào quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp.

Hơn nữa, việc
kiểm soát số lượng sản xuất theo công suất này hoàn toàn không liên quan gì tới
mục tiêu kiểm soát chất lượng của sản phẩm phân bón.

Vì vây, đề
nghị Ban soạn thảo
:

·
Bỏ
quy định tại khoản 3 Điều 8c, tức là bỏ quy định “tổng số lượng nhận gia công từng
loại phân bón không được vượt quá công suất đã được cấp phép”

·
Điều
chỉnh lại các quy định liên quan đến cấp phép sản xuất phân bón, bỏ quy định cấp
phép theo công suất (cụ thể: bỏ nội dung “công suất” trong nội dung Giấy chứng
nhận quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 sửa đổi; bỏ quy định “thay đổi công suất”
phải thực hiện thủ tục cấp lại, điều chỉnh Giấy chứng nhận quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 12 sửa đổi).


Về
hợp đồng gia công: Quy định tại khoản 4 Điều 8c không thể hiện được tính đặc thù
của hoạt động gia công phân bón và các nội dung này đã được quy định trong pháp
luật về dân sự. Hơn nữa, quy định tại Dự thảo là chưa phù hợp với thực tế, bởi
các bên có thể giao dịch thông qua các hình thức khác như email, fax … mà không
nhất thiết phải lập thành văn bản với các nội dung như yêu cầu tại Dự thảo. Đề
nghị Ban soạn thảo
bỏ quy định tại khoản 4 Điều 8c.

2.      Một số quy định liên quan đến thủ tục hành chính tại Dự thảo

Dự thảo có một số quy định liên quan
đến thủ tục hành chính trong đó có một số thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung
thủ tục hành chính hiện hành, một số thủ tục hành chính mới. Trên tinh thần cải
cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính mà Chính phủ đang thực hiện, thì đề
nghị Ban soạn thảo
xem xét, cân nhắc về một số quy định về thủ tục hành
chính tại Dự thảo ở các điểm sau:

a.
Thông báo về gia công phân bón (khoản 11 Điều 1 Dự thảo bổ sung Điều 8b)

Theo quy định tại Điều 8b thì bên nhận
gia công phải gửi thông báo đến Sở Công Thương thuộc địa bàn quản lý để theo
dõi trong thời gian 20 ngày trước khi tiến hành gia công phân bón. Đây là quy định
mới so với Nghị định 202 và không rõ cơ quan nhà nước sẽ “theo dõi” điều gì ở
hoạt động gia công này, trong khi thực tế đây cũng là một hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp đã được cấp phép sản xuất phân bón? (tức là cơ quan nhà nước đã tiền
kiểm rồi). Đồng thời theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp thì định kỳ
doanh nghiệp đều phải báo cáo về tình hình hoạt động (tức là cơ quan nhà nước
đã kiểm soát quá trình hoạt động rồi). Nói cách khác, quy định về việc thông
báo để “theo dõi” này là trùng lặp với các quy định khác và rất ít ý nghĩa từ
góc độ hiệu quả quản lý.

Hơn nữa, từ góc độ cải cách hành
chính, quy định này nếu áp dụng đối với doanh nghiệp nhận nhiều hợp đồng gia
công thì việc phải thực hiện thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền mỗi
khi thực hiện hoạt động giao công sẽ tạo ra một gánh nặng lớn về thủ tục hành
chính mà doanh nghiệp phải thực hiện, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo
cân nhắc, xem xét bỏ quy định tại Điều 8b.

b.
Hồ sơ đăng ký san chiết, đóng gói phân bón (khoản 14 Điều 1 Dự thảo bổ
sung Điều 10a)

Theo quy định tại Điều 10a thì trong
hồ sơ đăng ký hoạt động san chiết, đóng gói phân bón, doanh nghiệp phải nộp:


Giấy
đăng ký địa điểm san chiết, đóng gói phân bón (trường hợp địa chỉ sản xuất chưa
được đăng ký trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp): Bản công chứng hoặc bản
sao có dấu chữ ký của đại diện pháp luật của tổ chức, cá nhân san chiết, đóng
gói phân bón (điểm b khoản 1)


Giấy
tờ chứng minh nguồn gốc của loại phân bón được san chiết, đóng gói và phù hợp với
quy định hiện hành về sở hữu trí tuệ (điểm g khoản 1)

Như phân tích ở trên, điều kiện “phải
được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận địa điểm sản xuất, kinh doanh” là chưa hợp
lý, do đó đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu phải có giấy đăng ký địa điểm
san chiết, đóng gói phân bón quy định tại điểm b khoản 1 Điều 10a.

Đối với giấy tờ chứng minh nguồn gốc
của các loại phân bón được san chiết, đóng gói – đây là loại tài liệu không liên
quan tới điều kiện san chiết, đóng gói phân bón nào quy định tại Điều 8c. Hơn nữa,
tại thời điểm xin phép trước khi hoạt động, yêu cầu doanh nghiệp phải có giấy tờ
chứng minh về nguồn gốc của các loại phân bón được san chiết, đóng gói (vốn là hoạt
động kinh doanh sẽ diễn ra sau khi được cấp phép), là chưa hợp lý (tại thời điểm
đó, doanh nghiệp có thể sẽ chưa xác định được nguồn gốc của loại phân bón sẽ được
san chiết hoặc các thông tin này có thể sẽ được thay đổi trong quá trình hoạt động,
ví dụ thay đổi nhà cung cấp phân bón). Để đảm bảo tính hợp lý, đề nghị Ban
soạn thảo
bỏ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 10a, tức là bỏ yêu cầu phải
có “Giấy tờ chứng minh nguồn gốc của loại phân bón được san chiết, đóng gói và
phù hợp với quy định hiện hành về sở hữu trí tuệ” trong Hồ sơ, thủ tục đăng ký
san chiết, đóng gói phân bón.

c.
Thủ tục cấp giấy phép sản xuất phân bón

Khoản 17 Điều 1 Dự thảo sửa đổi Điều
14 về cơ quan cấp phép theo đó chuyển thẩm quyền từ Bộ Công Thương, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn sang cho Sở Công Thương cấp phép. Đồng thời, Điều
14 sửa đổi có quy định “Sở Công Thương kiểm tra cơ sở sản xuất phân bón theo
quy định tại Điều 8 Nghị định này trước khi cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản
xuất phân bón”. Điều này được hiểu, trong thủ tục cấp giấy phép sản xuất phân
bón thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ xem xét hồ sơ mà còn sẽ tiến
hành kiểm tra thực tế doanh nghiệp trước khi cấp giấy phép hoạt động?

Tuy nhiên, quy định về trình tự, thủ
tục cấp giấy phép sản xuất phân bón vẫn giữ nguyên quy định tại khoản 4 Điều 12
Nghị định 202, theo đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ chỉ thẩm định, xem xét
các điều kiện mà doanh nghiệp phải đáp ứng trên giấy tờ, tài liệu, không có kiểm
tra thực tế.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo sửa
đổi lại Điều 14 cho thống nhất với các quy định khác liên quan, theo hướng: Sở
Công Thương cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất phân bón, cấp văn bản xác
nhận đăng ký hoạt động san chiết, đóng gói phân bón cho các tổ chức, cá nhân
thuộc địa bàn quản lý (tức là bỏ bước về kiểm tra thực tế).

3.      Một số góp ý khác

a.
Quản lý chất lượng phân bón (khoản 22 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều
18)

Khoản 4 Điều 18 quy định “Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn … quy định điều kiện, trình tự, thủ tục chỉ định
đối với tổ chức thử nghiệm, chứng nhận, giám định phân bón; chỉ định và quản lý
hoạt động của tổ chức thử nghiệm, chứng nhận, giám định phân bón”. Quy định này
là chưa thống nhất với Điều 7 Luật Đầu tư 2014 và Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2015 vì Bộ không có thẩm quyền quy định về điều kiện kinh doanh và
quy định về thủ tục hành chính. Đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại khoản 4
Điều 18 và quy định ngay tại Nghị định này các quy định về điều kiện, trình tự,
thủ tục chỉ định đối với tổ chức thử nghiệm, chứng nhận, giám định phân bón để
đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

b.
Quảng cáo phân bón (khoản 29 Điều 1 Dự thảo bổ sung Điều 21a)

Khoản 1 Điều 21a quy định “Tổ chức,
cá nhân quảng cáo phân bón phải được cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại
khoản 4 Điều này xác nhận nội dung quảng cáo”. Điều 4 được sửa đổi trong Dự thảo
không phân định rõ về thẩm quyền xác định nội dung quảng cáo giữa Bộ Công
Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do đó, quy định này sẽ khiến
cho doanh nghiệp không biết cơ quan nào sẽ xác nhận quảng cáo của phân bón. Đề
nghị Ban soạn thảo
quy định rõ điều này để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện.

Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một
số điều cảu Nghị định số 202/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 của Chính phủ về quản
lý phân bón. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo
cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra
gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng
Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.