VCCI góp ý dự thảo Luật biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi khởi kiện và thủ tục bắt giữ tàu biển, tàu bay
VCCI góp ý DT Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 10/2010/NĐ-CP
Kính gửi: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trả lời Công văn số 314/NHNN-TTGSNH của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 10/2010/NĐ-CP ngày 12/02/2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Báo cáo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến như sau:
Về cơ bản, Dự thảo Báo cáo đã nêu bật được các nội dung quan trọng liên quan đến hoạt động cung cấp thông tin tín dụng ở Việt Nam từ cơ sở pháp lý đến thực tiễn. Dự thảo Báo cáo cũng nêu được định hướng lựa chọn mô hình quản lý hoạt động cung cấp thông tin tín dụng ở Việt Nam thời gian tới dựa trên các phân tích từ các mô hình trên thế giới, đồng thời phân tích các quan điểm của các đối tượng lấy ý kiến đối với một số quy định cần nghiên cứu để sửa đổi của Nghị định 10.
Nhìn chung, bước đầu nội dung của Dự thảo Báo cáo đã giúp nhận diện được các vấn đề của Nghị định 10 và đưa ra các dự kiến sửa đổi. Tuy nhiên, để các chính sách được nhận diện rõ ràng và hoàn thiện hơn, đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét một số điểm sau:
- Về thị trường cung cấp thông tin tín dụng
Theo nội dung Dự thảo Báo cáo thì hiện nay, trên thị trường chỉ có 2 tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng, bao gồm: (i) Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) – đơn vị sự nghiệp công lập, thành lập, hoạt động theo cơ chế riêng và (ii) Công ty cổ phần thông tin tín dụng Việt Nam – PCB, hoạt động theo Nghị định 10/2010/NĐ-CP.
Như vậy, đây là thị trường gần như độc quyền, với chỉ 02 chủ thể cung cấp thông tin tín dụng hoạt động. Số lượng này về mặt lý thuyết có thể tăng lên, vì Nghị định 10 cho phép gia nhập thị trường tự do, miễn là đáp ứng đủ các điều kiện. Tuy nhiên, với điều kiện “có tối thiểu 20 ngân hàng thương mại cam kết cung cấp thông tin tín dụng và các ngân hàng này không có cam kết tương tự với công ty thông tin tín dụng khác” (điều kiện độc quyền về tiếp nhận thông tin), và với thực tế là ở Việt Nam hiện chỉ có hơn 40 ngân hàng, tối đa sẽ chỉ có 01 chủ thể nữa có thể gia nhập thị trường (với giả thuyết là công ty PCB hiện chỉ có 20 ngân hàng thương mại cam kết cung cấp thông tin, và CIC không phải tuân thủ điều kiện này).
Tình trạng “gần như độc quyền” này có thể dẫn tới việc các đối tượng được cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng không có nhiều lựa chọn trong việc chọn chủ thể cung cấp thông tin và có thể phải chịu bất lợi trong giao dịch liên quan (ví dụ: có thể chịu chi phí cao; chất lượng dịch vụ chưa tốt trong khi không có lựa chọn nào khác).
Mặc dù, Dự thảo Báo cáo đã có phản ánh về thực trạng hoạt động cung cấp thông tin của PCB và CIC, tuy nhiên lại chưa đánh giá về phía các chủ thể được cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng ít nhất ở các điểm: những phản ánh của các đối tượng này về chất lượng dịch vụ, về giá cả dịch vụ; độ tin cậy của các sản phẩm thông tin tín dụng được cung cấp; …
Việc thiếu vắng thông tin này khiến cho việc nhận định về thị trường cung cấp thông tin tín dụng trở nên thiếu toàn diện, từ đó khó để có thể nhìn nhận được tính hợp lý của các quy định tại Nghị định 10 và sự tác động của các quy định tại Nghị định này tới thị trường.
Đề nghị Quý Cơ quan bổ sung nội dung về việc đánh giá việc áp dụng Nghị định 10 từ góc độ của các đối tượng thụ hưởng – những đối tượng được cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng.
- Mục tiêu quản lý của Nhà nước đối với thị trường cung cấp thông tin tín dụng
“Cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng” được xác định là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Phụ lục 4 (sửa đổi) Luật Đầu tư 2014. Nghị định 10 cũng quy định về các điều kiện kinh doanh đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này (điều kiện về cơ sở vật chất; vốn; nhân sự; phương án kinh doanh; số lượng tối thiểu ngân hàng thương mại cam kết cung cấp thông tin; quy trình thu thập, xử lý, lưu giữ và cung cấp thông tin)[1].
Nhìn trên bề mặt, mục tiêu của các điều kiện kinh doanh trong Nghị định 10 suy đoán là nhằm (i) bảo vệ lợi ích của khách hàng trong trường hợp công ty cung cấp thông tin tín dụng vi phạm pháp luật gây thiệt hại (điều kiện về vốn tối thiểu); (ii) bảo đảm năng lực chuyên môn đáp ứng nhu cầu của khách hàng và quy định liên quan của pháp luật, ví dụ như bảo mật thông tin…; (iii) bảo đảm nguồn cung thông tin (điều kiện về việc phải có cam kết của các ngân hàng cung cấp thông tin).
Nếu đúng là các mục tiêu này thì dường như các điều kiện kinh doanh hiện tại trong Nghị định 10 là vượt quá mức cần thiết, ít nhất là:
– Điều kiện về vốn tối thiểu (30 tỷ): Hoạt động cung cấp dịch vụ thông tin theo Nghị định 10 chỉ giới hạn ở những thông tin cơ bản, không gắn với hiện trạng tài chính chi tiết của các chủ thể; các loại chủ thể có thể mua dịch vụ này cũng rất hạn chế. Do đó, thiệt hại có thể có từ hoạt động này không phải quá lớn (trong so sánh với các dịch vụ tài chính ngân hàng khác). Vậy điều kiện về vốn tối thiểu (30 tỷ) như trong Nghị định 10 có quá cao không?
– Điều kiện về nguồn cung (20 ngân hàng cam kết, cam kết chỉ cung cấp độc quyền): Ở đây có 02 vấn đề đáng chú ý:
+ Thứ nhất, về số lượng tối thiểu các ngân hàng cam kết cung cấp thông tin: Nguồn tin là vấn đề cốt lõi của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này, nếu không có nguồn đủ để đáp ứng nhu cầu khách hàng, hoạt động kinh doanh sẽ không thể duy trì lâu dài, khách hàng sẽ nhanh chóng bỏ doanh nghiệp. Vì vậy, từ chính nhu cầu kinh doanh, doanh nghiệp sẽ phải giành được nhiều nhất các cam kết cung cấp dịch vụ từ các ngân hàng, Nhà nước không cần, cũng không nên can thiệp vào vấn đề này. Việc doanh nghiệp có ít hay có nhiều ngân hàng cam kết cung cấp dịch vụ chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, không gây ra bất kỳ tác động bất lợi nào tới các lợi ích công công mà Nhà nước cần bảo vệ. Vì vậy, điều kiện này dường như là không cần thiết;
+ Thứ hai, về điều kiện ngân hàng chỉ được cung cấp thông tin cho một công ty cung cấp dịch vụ (mà không được cung cấp cho công ty nào khác): Không rõ điều kiện này nhằm bảo vệ lợi ích công công nào? Một khi ngân hàng đã cung cấp thông tin cho một doanh nghiệp thì việc họ cung cấp cũng thông tin đó cho doanh nghiệp khác không làm tổn hại đến bất kỳ chủ thể nào khác (chú ý là thông tin ngân hàng được phép cung cấp là những thông tin được pháp luật cho phép cung cấp, tức là suy đoán không làm ảnh hưởng lớn tới các chủ thể liên quan). Vì vậy, điều kiện này không có ý nghĩa trong việc bảo vệ lợi ích công cộng nào, trong khi lại là yếu tố cốt lõi dẫn tới độc quyền trong lĩnh vực cung cấp thông tin (như phân tích ở trên).
Trên thực tế, kể từ khi Nghị định 10 phát sinh hiệu lực, trong hơn 06 năm qua, chỉ có duy nhất 01 doanh nghiệp (công ty PCB) được cấp giấy phép hoạt động cung cấp thông tin tín dụng. Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu có phải vì các điều kiện kinh doanh trong Nghị định 10 vượt quá mức cần thiết, dẫn tới tình trạng độc quyền thực tế trong lĩnh vực này?
Nếu mục tiêu quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này là hạn chế các đối tượng tham gia vào hoạt động cung cấp thông tin tín dụng (và thị trường này không dành cho số đông) thì đây lại là vấn đề lớn (bởi mục tiêu này đi ngược lại nguyên tắc cạnh tranh của một nền kinh tế thị trường), cần được giải trình chi tiết và thuyết phục, đặc biệt là phải giải trình được sự cần thiết phải hạn chế số lượng chủ thể kinh doanh trong việc bảo vệ các lợi ích công cộng quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư 2014.
Vì vậy, Dự thảo báo cáo cần làm rõ hơn, đầy đủ và chi tiết hơn về mục tiêu quản lý của từng điều kiện kinh doanh trong Nghị định 10, đồng thời đánh giá tác động thực tế của các điều kiện này (có bảo vệ được lợi ích công cộng liên quan không? Có gây ra hệ quả hạn chế cạnh tranh gây thiệt hại cho người sử dụng dịch vụ không?)
- Một số vấn đề cần nghiên cứu
3.1. Về phạm vi, đối tượng điều chỉnh
Dự thảo Báo cáo đặt ra vấn đề về phạm vi của Nghị định 10, cụ thể Nghị định này có nên điều chỉnh hoạt động thông tin tín dụng của CIC không?
Theo giải trình CIC là tổ chức sự nghiệp công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng thông tin tín dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, CIC vẫn thực hiện hoạt động cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thu phí để bù đắp chi phí hoạt động và hoạt động này không chịu sự điều chỉnh của Nghị định 10.
Theo nội dung giải trình trên thì CIC có hoạt động có tính chất kinh doanh tương tự như hoạt động của PBC đó là: cung cấp dịch vụ có thu phí (lợi nhuận)cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Như vậy, CIC suy đoán là cũng phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện về chuyên môn, về trách nhiệm… để bảo vệ lợi ích của các chủ thể liên quan. Nói cách khác, CIC cũng phải bảo đảm các điều kiện vận hành và chịu trách nhiệm như trong Nghị định 10 (suy đoán các điều kiện trong Nghị định là để nhằm các mục tiêu này).
Tuy nhiên, cho đến nay CIC lại không chịu cơ chế quản lý và điều chỉnh của Nghị định 10 tương tự như PCB.
Điều này dường như chưa hợp lý, bởi:
– tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh khi cả hai chủ thể này cùng cung cấp dịch vụ có bản chất tương tự nhau nhưng lại chịu sự điều chỉnh của hai cơ chế khác nhau;
– Không bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan (suy đoán là các điều kiện kinh doanh trong Nghị định 10 là để bảo đảm các lợi ích công công này).
Đề nghị Quý Cơ quan xem xét để quy định hoạt động cung cấp thông tin tín dụng có thu phí (dịch vụ kinh doanh) của CIC phải thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 10.
3.2. Về các điều kiện kinh doanh dịch vụ cung cấp thông tin tín dụng
(i) Về điều kiện “Có tối thiểu 20 ngân hàng thương mại cam kết cung cấp thông tin tín dụng và các ngân hàng này không có cam kết tương tự với công ty thông tin tín dụng khác”
Như đã đề cập, điều kiện này dường như không phục vụ việc bảo đảm các mục tiêu quản lý thông thường của Nhà nước trong khi lại dẫn tới hệ quả hạn chế cạnh tranh trên thị trường dịch vụ này.
Trong khi đó, cần chú ý rằng Nghị định 10 hiện tại đang thiết kế một cơ chế khá chặt chẽ nhằm quản lý quy trình và phạm vi cung cấp thông tin tín dụng, theo hướng:
– Áp đặt điều kiện để được cấp phép hoạt động đối với các chủ thể cung cấp thông tin tín dụng
– Giới hạn về các thông tin tín dụng được thu thập
– Đặt ra các yêu cầu về xử lý thông tin tín dụng, lưu giữ thông tin tín dụng
– Giới hạn về các đối tượng được cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng (tổ chức tín dụng cung cấp thông tin cho tổ chức cung cấp thông tin tín dụng; khách hàng vay kiểm tra thông tin của bản thân; công ty thông tin tín dụng khác; cơ quan nhà nước có thẩm quyền)
Với những yêu cầu trên thì việc cung cấp thông tin tín dụng được kiểm soát khá chặt chẽ, có thể đảm bảo được mục tiêu, vừa việc cung cấp thông tin không xâm phạm quá mức đến những thông tin riêng tư của các chủ thể vừa đảm bảo tính hữu ích của các thông tin cho việc quyết định cấp tín dụng hay các hoạt động liên quan đến.
Việc cung cấp các thông tin như: lịch sử cấp tín dụng, thuê tài sản, mua hàng trả góp, trả chậm và các giao dịch khác có điều kiện về lãi suất, thời hạn phải trả, tiền thuê; thông tin về lịch sử trả nợ, số tiền đã đến hạn hoặc chưa đến hạn, thời hạn phải trả, hạn mức tín dụng của khách hàng vay, … có thể thu thập thông qua các tổ chức tín dụng. Để cung cấp được các thông tin này, các công ty cung cấp thông tin tín dụng buộc phải tìm kiếm thông tin thông qua các giao dịch hợp pháp với các tổ chức tín dụng.
Do đó, yêu cầu phải có cam kết của các ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tín dụng và giới hạn số lượng tối thiểu ngân hàng thương mại cam kết dường như không cần thiết và chưa hợp lý trong bối cảnh đã có các ràng buộc khác về cơ chế như trên.
Hơn nữa, hạn chế các ngân hàng thương mại đã có cam kết cung cấp thông tin tín dụng đối với công ty cung cấp thông tin tín dụng, không có cam kết tương tự với công ty thông tin tín dụng khác, đồng nghĩa với việc yêu cầu các ngân hàng thương mại này chỉ được tiếp nhận sản phẩm thông tin tín dụng từ công ty mà ngân hàng này cam kết mà không được lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ khác (bởi, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 10 thì tổ chức cấp tín dụng có cung cấp thông tin cho công ty thông tin tín dụng sẽ là đối tượng được cung cấp thông tin tín dụng). Điều này khiến cho quyền lợi của các ngân hàng thương mại này không được đảm bảo (vì không được lựa chọn nhà cung cấp) trong khi họ lại phải bỏ tiền ra cho các dịch vụ này.
Do vậy, cùng với các phân tích này và bình luận tại Mục 2 Công văn này, đề nghị Quý cơ quan giải trình về mục tiêu và sự cần thiết của việc yêu cầu phải có cam kết cung cấp thông tin của ngân hàng thương mại và giới hạn tối thiểu ngân hàng thương mại cam kết cung cấp thông tin tín dụng.
Trường hợp không thể giải trình thuyết phục và phù hợp căn cứ pháp luật (khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư), đề nghị Quý Cơ quan xem xét bỏ điều kiện này trong định hướng sửa đổi sắp tới.
Trường hợp có thể giải trình hợp lý, phù hợp với các quy định pháp luật liên quan, đề nghị ít nhất cần hạ thấp số lượng ngân hàng cam kết cung cấp thông tin tín dụng xuống.
(ii) Về điều kiện “vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng”
Như đã đề cập, nếu đây là điều kiện nhằm mục tiêu bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan nếu có vi phạm xảy ra trong cung cấp thông tin tín dụng thì quy định này là không cần thiết.
Còn nếu để đảm bảo nguồn vốn để doanh nghiệp có thể hoạt động tốt thì đây là vấn đề thuộc về thị trường, tự bản thân doanh nghiệp phải có để có thể hoạt động và cung cấp tốt dịch vụ.
Trong mọi trường hợp Nhà nước chỉ nên can thiệp bằng cách áp đặt số vốn tối thiểu đối với doanh nghiệp nếu hoạt động này tác động đến các trật tự công nếu không có đủ số vốn trên.
Đề nghị Quý cơ quan giải trình rõ hơn về mục tiêu của quy định này, trong trường hợp giải trình chưa thuyết phục, đề nghị cân nhắc bỏ quy định về số vốn tối thiểu trong định hướng sửa đổi sắp tới.
(iii) Về điều kiện “không được kinh doanh ngành, nghề khác ngoài nội dung hoạt động thông tin tín dụng quy định tại Nghị định này”
Giải trình của Quý Cơ quan là hợp lý và thuyết phục, do vậy đây là điều kiện cần thiết và đáp ứng mục tiêu bảo đảm lợi ích công cộng liên quan.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 10/2010/NĐ-CP ngày 12/02/2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
[1] Cơ sở vật chất: đủ cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin, đảm bảo yêu cầu hoạt động
Vốn: vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng
Nhân sự: Đội ngũ quản lý là những người có trình độ chuyên môn về tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin
Có phương án kinh doanh khả thi và không được kinh doanh ngành, nghề nào khác ngoài nội dung hoạt động thông tin tín dụng
Có tối thiểu 20 Ngân hàng Thương mại cam kết cung cấp thông tin tín dụng và các ngân hàng này không cam kết với Công ty thông tin tín dụng khác
Có văn bản thỏa thuận về quy trình thu thập, xử lý, lưu giữ và cung cấp thông tin tín dụng giữa Công ty thông tin tín dụng với các tổ chức cấp tín dụng đã cam kết