Vài ý kiến về báo cáo rà soát Luật Thuế Giá trị gia tăng – Luật gia Vũ Xuân Tiền

Thứ Tư 09:10 14-09-2011

Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT)  ban hành lần đầu vào năm 1997, qua nhiều lần bổ sung sửa đổi, ngày 03/6/2008, Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 3 thông qua Luật thuế GTGT (Luật số 13/2008/QH12) thay thế các Luật trước đó. Luật thuế GTGT 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 đã đạt được những mục tiêu đặt ra khi xây dựng Luật.

Qua ba năm thực hiện, Luật thuế GTGT 2008 đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch. Tuy nhiên, do sự vận động liên tục của nền kinh tế, đến nay, Luật thuế GTGT 2008 đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Vì vậy, rà soát Luật thuế GTGT và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan nhằm kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật này là cần thiết khách quan và cấp bách.

Báo cáo rà soát Luật thuế GTGT đã phát hiện 08 vấn đề cần bổ sung, sửa đổi và đưa ra những khuyến nghị cho việc bổ sung, sửa đổi. Đó là những phát hiện đúng, khách quan. Những khuyến nghị về việc bổ sung, sửa đổi là hợp lý.

Nhằm góp phần đảm bảo cho báo cáo rà soát toàn diện hơn, xin được đề xuất bổ sung một số vấn đề sau đây:

1.      Về đối tượng không tính thuế GTGT:

Luật thuế GTGT không quy định về đối tượng không tính thuế GTGT mà chỉ quy định đối tượng không chịu thuế, các đối tượng còn lại đều là đối tượng chịu thuế. Và khi kinh doanh, mua, bán những hàng hoá, dịch vụ là đối tượng chịu thuế GTGT thì cơ sở kinh doanh phải tính thuế GTGT. Song, trong thực tế đã có những trường hợp phát sinh, hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT nhưng Bộ Tài chính đã cho phép không tính thuế chẳng hạn: Hàng hoá, dịch vụ được đối tượng nộp thuế tại VN cung cấp ngoài VN; các khoản thu tài chính về bồi thường do hợp đồng bị huỷ, tiền đặt cọc thu được khi đối tác không thực hiện cam kết; tiền thưởng do hoàn thành hợp đồng trước thời hạn....

Vì lý do trên, để đảm bảo tính pháp lý của các văn bản dưới luật và đáp ứng yêu cầu thực tế, đề nghị bổ sung thêm Điều 5a: Đối  tượng không tính thuế GTGT.

2.      Bổ sung khoản 7 Điều 5 Luật thuế GTGT

Khoản 7 Điều 5 Luật thuế GTGT quy định: "7. Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm người học, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và tái bảo hiểm". Quy định trên chưa đủ và trong thực tế đã phát sinh những trường hợp chưa có căn cứ pháp lý để xử lý. Vì vậy, đề nghị sửa khoản 7 Điều 5 như sau: "Bảo hiểm nhân thọ; bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm người học,bảo hiểm nghề nghiệp  và các dịch vụ bảo hiểm liên quan đến con người; bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác; tái bảo hiểm.”

3.      Bổ sung nội dung khoản 8 Điều 5 Luật thuế GTGT:

Khoản 8 Điều 5 Luật thuế GTGT quy định: "8. Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán; chuyển nhượng vốn; dịch vụ tài chính phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy định của pháp luật". Nội dung tại khoản trên đã được quy định chi tiết tại khoản 4 Điều 3 Nghị định số 123. Song, kể cả quy định tại NĐ 123 vẫn còn những hoạt động sau đây chưa được đề cập:

-         Dịch vụ tín dụng có: Bên cho vay bán tài sản đang bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ; Bán nợ;

-         Kinh doanh chứng khoán có: Dịch vụ quản lý công ty đầu tư chứng khoán; Dịch vụ đăng ký, lưu ký tại Trung tâm chứng khoán VN;Cho khách hàng vay tiền để thực hiện giao dịch ký quỹ; Ứng trước tiền bán chứng khoán;

-         Chuyển nhượng vốn gồm: Chuyển nhượng quyền khai thác dự án; chuyển nhượng dự án

4.      Về giá tính thuế

Khoản 1 Điều 7 Luật thuế GTGT quy định về giá tính thuế. Đề nghị bổ sung thêm một trường hợp: Giá tính thuế đối với hoạt động cung ứng dịch vụ vừa diễn ra ở ngoài VN, vừa diễn ra ở VN. Đây là hoạt động đã phát sinh trong thực tiễn và sẽ ngày càng nhiều trong xu thế hội nhập hiện nay như các hoạt động du lịch lữ hành quốc tế; dịch vụ vận tải đa phương thức...

Đề nghị bổ sung tiết m vào khoản 1 Điều 7 Luật thuế GTGT như sau:

“m. Giá tính thuế đối với hoạt động cung ứng dịch vụ vừa diễn ra tại Việt Nam, vừa diễn ra ở ngoài Việt Nam là phần giá trị hợp đồng dịch vụ diễn ra tại Việt Nam. Trường hợp hợp đồng không xác định riêng phần giá trị dịch vụ diễn ra tại Việt Nam thì giá tính thuế GTGT là giá trị của toàn bộ hợp đồng".

5.      Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào

Tiết b, khoản 2 Điều 12 Luật thuế GTGT quy định một trong những điều kiện để được khấu trừ thuế GTGT là: "b) Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng". Đề nghị bổ sung thêm trường các trường hợp được coi là thanh toán qua ngân hàng gồm:

-         Người mua và người bán thanh toán bù trừ công nợ

-         Người mua chuyển tiền vào tài khoản của người bán qua bưu điện;

Từ đó, sửa tiết b, khoản 2 Điều 12 như sau:"b) Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng. Trường hợp thanh toán bù trừ công nợ có biên bản thanh toán bù trừ và các chứng từ hợp pháp chứng minh; người mua chuyển tiền vào tài khoản của người bán qua bưu điện cũng được coi là thanh toán qua ngân hàng".

6.      Về các trường hợp hoàn thuế

Khoản 1 Điều 13 Luật thuế GTGT quy định một trong những trường hợp được hoàn thuế như sau:

"1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.

Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng".

Trên thực tế đã xuất hiện trường hợp với các dự án có quy mô lớn như dự án trọng điểm quốc gia, dự án nhóm A, trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ rất lớn. Để tháo gỡ khó khăn về vốn cho chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, cần có cơ chế hoàn nhanh thuế GTGT cho những trường hợp này. Vì vậy, đề nghị bổ sung việc hoàn nhanh thuế GTGT cho các dự án đầu tư có quy mô lớn. Do đó, đề nghị thêm vào khoản 1 Điều 13 nêu trên một nội dung như sau:

"Cơ sở kinh doanh thực hiện các dự án đầu tư lớn gồm dự án trọng điểm quốc gia, các dự án nhóm A,  được hoàn nhanh số thuế GTGT đầu vào theo quy định của Chính phủ"

Trên đây là một số ý kiến bổ sung cho báo cáo rà soát Luật Thuế GTGT. Xin kính chuyển để nhóm nghiên cứu tham khảo.

 

Các văn bản liên quan