Vai trò của án lệ trong sự phát triển của pháp luật hợp đồng
VAI
TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG
PHẠM HOÀNG GIANG
Pháp luật
của nhiều nước trên thế giới (trong đó có các nước theo hệ thống pháp luật Anh
– Mỹ hay hệ thống pháp luật thành văn như Pháp, Đức, Ý…) thừa nhận án lệ là
nguồn giải thích pháp luật và là nguồn của pháp luật trong lĩnh vực pháp luật
hợp đồng.
1. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới
(trong đó có các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ hay hệ thống pháp luật
thành văn như Pháp, Đức, Ý…) thừa nhận án lệ là nguồn giải thích pháp luật và
là nguồn của pháp luật trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng. Theo pháp luật các
nước này, án lệ đựơc hiểu là đường lối áp dụng của toà án về một vấn đề pháp lý
đã trở thành tiền lệ mà các thẩm phán có thể theo đó để xét xử trong các trường
hợp tương tự. án lệ có hai nhiệm vụ: một là giải thích và áp dụng pháp
luật; hai là dự bị các cải cách pháp luật[1].
2. Ở những nước theo truyền thống án lệ, toà
án không chỉ can thiệp vào quan hệ hợp đồng mà còn có vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc “sáng tạo” ra pháp luật thông qua các quyết định xét xử của mình.
Các quy tắc pháp luật đã được đưa ra trong một phán quyết của toà án khi xét xử
một vụ việc tương tự đều có hiệu lực ràng buộc đối với thẩm phán của các toà án
cùng cấp hoặc cấp dưới (trừ phán quyết của toà án sơ cấp). Phán quyết của toà
án tối cao không chỉ có hiệu lực ràng buộc với các toà án sơ cấp, mà với cả toà
án cao cấp có vị trí thứ bậc thấp hơn toà án đó (ví dụ: các thẩm phán xét xử
độc lập của toà án cao cấp thẩm quyền chung được coi là có vị trí thứ bậc thấp
hơn so với hội đồng xét xử tập thể), thậm chí đối với cả toà án cùng cấp với
toà án đó. Tuy nhiên, thẩm phán có thể không áp dụng quy tắc tiền lệ này trong
trường hợp họ cho rằng, các tình tiết của vụ án mình đang xét xử không giống
với các tình tiết trong vụ án đã xét xử trước đó (gọi là phương thức phân biệt).
Ngay cả trong trường hợp các tình tiết được coi là giống nhau, thẩm phán cũng
có quyền không chịu sự ràng buộc của một quy tắc tiền lệ đã được lập ra trong
một phán quyết ban hành trước đó, nếu cho rằng quy tắc đó không phải là một căn
cứ có tính chất quyết định (ratio decidendi), đặc biệt là trong trường hợp căn
cứ đó chỉ có tính chất bổ sung (obiter dictum), còn đang được tranh cãi hay
trong trường hợp quy tắc được đưa ra vượt quá khuôn khổ của vụ việc cần xét
xử[2]. Với vai trò của án lệ như vậy, toà án có vai trò quan trọng trong việc
hình thành nên pháp luật hợp đồng thông qua hoạt động xét xử.
Ngoài việc thừa nhận nguyên tắc
tiền lệ là nguồn của pháp luật hợp đồng, pháp luật các nước theo truyền thống
án lệ còn thừa nhận quy tắc giải thích luật. Theo quy tắc này, tuỳ
theo mức độ không rõ ràng của văn bản luật, toà án có quyền giải thích luật
theo các cách sau:
Một là, cách giải thích theo câu chữ. Theo đó,
việc giải thích chỉ căn cứ vào câu chữ trong văn bản pháp luật, tức là căn cứ
vào câu chữ của quy phạm cần giải thích và ngữ cảnh của quy phạm đó.
Hai là, cách giải thích căn cứ vào mục đích điều
chỉnh của quy phạm. Theo đó, toà án sẽ căn cứ vào mục đích của nhà làm luật
muốn đạt được khi xây dựng quy phạm.
Ba là, cách giải thích trung gian, gọi là quy
tắc vàng (golden rule). Theo đó, khi giải thích, toà án phải căn cứ vào câu chữ
của luật, trừ trường hợp nếu giải thích như vậy có thể dẫn đến một kết quả phi
lý hoặc không công bằng mà nhà làm luật chắc chắn không muốn khi ban hành quy
phạm đó[3].
Quy định về nguyên tắc tiền lệ và
quy tắc giải thích pháp luật ở các nước theo hệ thống luật án lệ có ưu điểm là
tạo cho thẩm phán vai trò chủ độngQ, sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật
(các vụ việc luôn được toà án thụ lý giải quyết, ngay cả khi pháp luật thiếu
các quy định điều chỉnh), nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên, bảo vệ sự công
bằng, công lý trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, với việc trao cho thẩm phán
thẩm quyền lớn như vậy sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ thẩm phán vừa là người
tạo ra luật, vừa là người áp dụng pháp luật. Như thế sẽ ảnh hưởng đến nguyên
tắc độc lập xét xử của toà án và dẫn đến tình trạng cơ quan tư pháp “lấn át”
quyền lập pháp.
3. ở các nước theo truyền thống pháp luật
thành văn (như Pháp, Đức), vào thời kỳ đầu, toà án căn cứ vào quan niệm truyền
thống về nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng (một khi hợp đồng được
ký kết hợp pháp thì các điều khoản hợp đồng có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối
với các bên), nên không can thiệp vào quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp này,
hợp đồng có hiệu lực bắt buộc ngay cả đối với các cơ quan công quyền, nghĩa là
khi xét xử, giải thích hợp đồng, toà án, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng ý
chí, thoả thuận của các bên, không được huỷ bỏ, sửa đổi hay giải thích nội dung
hợp đồng khác với ý chí của các bên trong hợp đồng. Nguyên tắc này trước đây đã
từng được pháp luật hợp đồng một số nước quy định, ví dụ Điều 1134 Bộ luật Dân
sự của Pháp năm 1804 quy định “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là
luật đối với các bên giao kết”. Theo tinh thần của quy định này, thẩm phán
không có quyền sửa đổi, bổ sung hợp đồng trong trường hợp phát sinh tình huống
ngoài dự kiến. Nguyên tắc này dẫn đến một hệ quả là toà án không thể can thiệp
vào hợp đồng, ngay cả khi nội dung hợp đồng có những điều khoản bất hợp lý so
với thực tế thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, kể từ sau chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và thứ hai, do sự thay đổi của các điều kiện kinh tế – xã
hội sau chiến tranh, pháp luật hợp đồng của Pháp đã thừa nhận cho thẩm phán
quyền can thiệp, sửa đổi nội dung hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp
đồng phát sinh những tình huống (các bên đã không dự kiến trong hợp đồng) gây
khó khăn cho một bên trong qua trình thực hiện hợp đồng[4]. Ví dụ, Luật Faillot
ngày 21/01/1918 quy định toà án có quyền can thiệp sửa đổi, bổ sung hợp đồng
trong trường hợp việc thực hiện hợp đồng gặp khó khăn do tình hình kinh tế thay
đổi. Luật ngày 11/3/1957 quy định đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền khai
thác tác phẩm văn học, nghệ thuật, thẩm phán được quyền can thiệp để điều chỉnh
mức giá chuyển nhượng theo hướng tăng lên. Theo pháp luật hợp đồng của Đức, nếu
có những thay đổi lớn về bối cảnh của nền kinh tế làm mất đi căn cứ, nền tảng
của hợp đồng, thì toà án có thể sửa đổi hợp đồng cho phù hợp (Toà án liên bang,
ngày 28/11/1923, thuyết về trường hợp không dự tính được). Ngoài ra, theo Luật
hợp đồng của Đức, các thẩm phán trên cơ sở căn cứ vào nguyên tắc ngay tình
trong giao kết và thực hiện hợp đồng (quy định tại Điều 157 và Điều 242 của Bộ
luật Dân sự), có thể giải thích các điều khoản hợp đồng theo hướng buộc các bên
ký kết hợp đồng phải thực hiện thêm nhiều nghĩa vụ khác ngoài nội dung thoả
thuận hợp đồng, nhất là các nghĩa vụ như: nghĩa vụ bảo đảm an toàn, nghĩa vụ
thông tin và tư vấn… Trong trường hợp một bên vi phạm nguyên tắc này, hợp đồng
có thể bị tuyên bố vô hiệu[5]. Pháp luật một số nước cũng có quy định tương tự
như Đức. Ví dụ: Điều 451 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga quy định toà án có thể
sửa đổi hợp đồng trong những trường hợp đặc biệt. ở Pháp, thẩm phán có thể giải
thích, sửa đổi các điều khoản hợp đồng trên cơ sở căn cứ vào “nguyên tắc ngay
tình”, “nguyên tắc công bằng” trong giao kết hợp đồng để tuyên bố vô hiệu hoặc
sửa đổi, bổ sung các điều khoản hợp đồng vi phạm nguyên tắc này.
Việc thừa nhận án lệ là nguồn bổ
trợ của pháp luật hợp đồng và toà án có quyền can thiệp vào hợp đồng thông qua
quyền giải thích, sửa đổi nội dung hợp đồng nhằm mục đích bảo đảm công bằng về
lợi ích kinh tế giữa các bên trong giao kết hợp đồng, chống lại các hành vi lạm
dụng quyền tự do hợp đồng của bên thế mạnh đối với bên thế yếu trong quan hệ
hợp đồng, đã làm cho pháp luật hợp đồng ở các nước này luôn phát triển thích
ứng với những thay đổi của điều kiện kinh tế – xã hội. Đây cũng là lý do chứng
minh cho sự tồn tại ổn định của các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
của Pháp trong hơn 200 năm qua.
Ngoài ra, trong trường hợp hợp
đồng được giao kết trái với các quy định của pháp luật (ví dụ: hợp đồng mua bán
các đối tượng bị pháp luật cấm), toà án có thẩm quyền can thiệp vào quan hệ hợp
đồng thông qua việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu (vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu
từng phần) hoặc sửa đổi, bổ sung các điều khoản hợp đồng mà các bên đã thoả
thuận không phù hợp quy định của pháp luật.
4. Đối với Việt Nam, việc quy định cho toà
án quyền giải thích pháp luật trong hoạt động xét xử đối với lĩnh vực pháp luật
hợp đồng chưa được pháp luật quy định cụ thể. Vì vậy, việc thừa nhận vai trò
của án lệ trong việc giải thích pháp luật và là nguồn bổ trợ trong lĩnh vực
pháp luật về hợp đồng là hết sức cần thiết. Bởi vì nhà làm luật không thể dự
liệu hết mọi trường hợp có thể xảy ra trong thực tế, do đó cần phải giải thích
luật. Yêu cầu giải thích pháp luật càng quan trọng và có ý nghĩa khi pháp luật
chỉ đưa ra các nguyên tắc chung, hoặc khi pháp luật quy định không cụ thể, rõ
ràng hoặc có những thiếu sót. Việc giải thích pháp luật là để đáp ứng yêu cầu
điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội, bảo vệ lợi ích của các chủ thể
liên quan cũng như bảo đảm công bằng trong trong quan hệ hợp đồng. Đối với yêu
cầu thống nhất hệ thống pháp luật, hoạt động giải thích pháp luật còn có tác
dụng bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động giải thích và áp dụng áp luật. Để
bảo đảm yêu cầu này, hoạt động giải thích pháp luật phải được thực hiện bởi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định của Hiến pháp (Điều
91) và Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (Điều 52), thì Uỷ ban
thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh. Nhưng
cơ quan này trên thực tế không có thời gian dành cho hoạt động giải thích pháp
luật cho mỗi trường hợp cụ thể trong đời sống xã hội. Trong thực tiễn, hiếm khi
thấy Uỷ ban thường vụ Quốc hội tiến hành giải thích pháp luật. Do vậy, quy định
Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh
không có tính khả thi trên thực tế. Ngoài ra, ngoài luật, pháp lệnh thì cũng
còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng cần được giải thích khi áp dụng
trong thực tế, nhưng pháp luật nước ta chưa quy định cơ quan có thẩm quyền giải
thích những văn bản pháp luật này. Vậy cần phải quy định cho cơ quan nào có
thẩm quyền giải thích văn bản quy phạm pháp luật?
Hiện nay ở nước ta, trong giới
khoa học pháp lý có nhiều quan điểm không thống nhất nhau về vai trò của án lệ
như một nguồn của luật. Có quan điểm cho rằng, nhiệm vụ của toà án là giải
thích luật, do đó cũng có quyền tạo ra các quy phạm pháp luật trong quá trình
giải thích và áp dụng pháp luật trong chừng mực các quy phạm ấy không trái
luật. Quan điểm khác cho rằng, toà án chỉ có quyền áp dụng pháp luật và tập
quán, các bản án của toà án phải căn cứ vào quy định của pháp luật, vì vậy, toà
án không có quyền tạo ra luật. Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng, việc tranh
luận trên chỉ có tính lý thuyết và không mang lại lợi ích trong qua trình áp
dụng pháp luật. Ngày nay, án lệ có vai trò quan trọng trong hoạt động giải
thích luật với tư cách là một nguồn của luật được nhiều nước thừa nhận bởi các
lợi ích của nó trong hoạt động áp dụng và hoàn thiện pháp luật.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ
ba nêu trên rất đáng coi trọng. Về nguyên tắc, án lệ không phải là pháp luật,
nên không có hiệu lực áp dụng chung đối với toà án cấp dưới; bởi vì, toà án chỉ
có quyền áp dụng pháp luật chứ không có quyền làm ra luật, nếu không thì sẽ
“lấn sân” của cơ quan lập pháp. Nhưng hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là
hoạt động đòi hỏi sự sáng tạo, nhất là trong trường hợp pháp luật không quy
định hoặc quy định không cụ thể hay có những quy định mâu thuẫn. Vì vậy, những
bản án của Toà án nhân dân tối cao nếu có tình, có lý và được áp dụng nhiều
lần, thì nó sẽ có tính thuyết phục và sẽ được toà án cấp dưới xem xét áp dụng
theo. Vì vậy, án lệ của Toà án nhân dân tối cao cần được thừa nhận là nguồn
quan trọng của luật trong lĩnh vực hợp đồng.
Với vai trò là nguồn của luật, án
lệ cũng cần được coi là nguồn quan trọng trong giải thích pháp luật, bởi lẽ,
hoạt động xét xử của toà án luôn đòi hỏi phải thích ứng với sự thay đổi của đời
sống xã hội. Mỗi khi các điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi, làm cho pháp luật
trở lên không còn thích hợp nữa, thì trước khi chờ đợi các nhà làm luật sửa
đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp, đòi hỏi thẩm phán phải hết sức sáng tạo
trong giải thích và áp dụng pháp luật để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy,
án lệ nhiều khi phải giải thích pháp luật vượt ra ngoài phạm vi, ý nghĩa ban
đầu của các quy phạm pháp luật để bảo vệ công lý và công bằng, đảm bảo cho bản
án có tình, có lý. Như vậy, trước khi thực hiện cải cách, sửa đổi pháp luật, án
lệ có một vai trò quan trọng trong việc thử nghiệm và đi tiên phong trong việc
cải cách đó. Với vai trò quan trọng như vậy, tại hầu hết các nước theo hệ thống
pháp luật Anh – Mỹ và các nước theo hệ thống pháp luật thành văn (như Pháp,
Đức…), người ta đều thừa nhận án lệ có vai trò giải thích pháp luật. ở các nước
này, toà án thường thực hiện công việc sưu tập các bản án tiêu biểu, điển hình
thành những tập án lệ, phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật và hoạt động
nghiên cứu, lập pháp[6].
Tuy nhiên, không phải bất cứ bản
án nào của toà án cũng là án lệ. Trong hệ thống toà án ở nước ta hiện nay, các
toà án cấp huyện, tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, bản án của các toà án cấp
sơ thẩm có thể bị kháng cáo lên xét xử theo theo tục phúc thẩm và bản án phúc thẩm
có thể bị kháng nghị xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm bởi Toà án nhân dân tối
cao. Vì vậy, chỉ các bản án xét xử giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao
mới được coi là án lệ
5. Việc thừa nhận vai trò giải thích pháp
luật của thẩm phán và của toà án thông qua án lệ có một ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng, bảo đảm tính thống nhất,
bảo đảm quyền tự do hợp đồng trong hoạt động thương mại. Để thực hiện việc này,
về mặt lập pháp, cần quy định nguyên tắc thừa nhận án lệ là nguồn giải thích
pháp luật. Về mặt thực tiễn, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện thường xuyên việc
sưu tập, chọn lọc, in ấn, phổ biến các bản án tiêu biểu, điển hình của Toà án
nhân dân tối cao để phục vụ cho hoạt động áp dụng pháp luật và công tác xét xử
của toà án các cấp.
===================
[1] Nguyễn Mạnh Bách, Luật
Dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.64.
[2] Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ
bản trên thế giới, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2001, tr.148 -149.
[3] Michel Fromont, sdd tr
152.
[4] Corinne Renault – Branhinsky, Đại cương
về pháp luật hợp đồng, NXB Văn hoá – Thông tin,Hµ Néi, 2000, tr 90-91.
[5] Michel Fromont, sdd tr 66.
[6] Xem Nhà pháp luật Việt –
Pháp, 1997, Kỷ yếu Hội thảo sự phát triển của pháp luật dân sự và thương mại,
Hà Nội.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT SỐ 91