Thẩm quyền của toà án Việt Nam

Thứ Hai 16:26 22-05-2006
Tiến sỹ luật học Nguyễn Trung Tín
Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam



Về thẩm quyền của toà án Việt Nam

Ngoài mục đích chung trên, phần này còn nhằm đảm bảo cho việc xét xử các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài tại toà án Việt Nam được thuận tiện.

- Về K. 2 Điều 416:
Việc quy định như khoản 2 (các điểm a, b, c) của Điều 416 là không phù hợp.

Theo các quy định đó, toà án Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh chấp đó khi bị đơn là công dân nước ngoài hoặc nguyên đơn là công dân nước ngoài (đối với các vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ). Một vấn đề đặt ra ở đây là trong trường hợp đối với các vụ tương tự như vậy mà bị đơn hoặc nguyên đơn là công dân Việt Nam thì sao (?).

Điểm d, Khoản 2, Điều 416 quy định: "Các vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài". Trước hết, các vụ việc ở đây có thể là vụ việc về hợp đồng có hình thức hoặc nội dung theo pháp luật Việt Nam, hoặc vụ việc bồi thường thiệt hại xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam trong đó có ít nhất một trong các bên đương sự là người nước ngoài. Điều đó có nghĩa là thẩm quyền được xác định trên cơ sở xác định pháp luật nội dung điều chỉnh. Cách quy định này có lợi là nếu toà án Việt Nam giải quyết thì toà án Việt Nam sẽ áp dụng pháp luật của mình. Theo Điều 834 Bộ luật Dân sự năm 1995, hình thức hợp đồng được xác lập theo pháp luật nơi ký kết trừ trường hợp đối tượng của hợp đồng là liên quan bất động sản ở Việt Nam, nội dung hợp đồng được hình thành trên cơ sở pháp luật mà các bên thoả thuận lựa chọn, nếu không thoả thuận thì áp dụng pháp luật nơi thực hiện hợp đồng, trừ việc ký kết và thực hiện hợp đồng ở Việt Nam hoặc hợp đồng liên quan bất động sản ở Việt Nam. Việc xác định thẩm quyền theo cách này cũng không phải là biện pháp được ưa chuộng trên thế giới. Bởi đối với trường hợp về hợp đồng trên mà bị đơn lại ở nước ngoài hoặc tài sản (động sản) đối tượng của hợp đồng ở nước ngoài thì theo pháp luật các quốc gia phổ biến hiện nay, toà án nước ngoài nơi có bị đơn hoặc nơi có tài sản có thẩm quyền giải quyết. Bởi vậy, trong trường hợp này phải chăng chúng ta quy định thẩm quyền của toà án Việt Nam theo dấu hiệu nơi cư trú bị đơn hoặc nơi có tài sản tranh chấp là phù hợp hơn cả. Riêng đối với trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, việc quy định toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi hành vi gây thiệt hại xảy ra ở Việt Nam là phù hợp với xu hướng chung. Cách quy định đó trên thực tế có cơ sở là ở chỗ toà án nơi đó có điều kiện thuận lợi để xác định ai là người có lỗi, mức độ của lỗi và mức độ thiệt hại. Tuy nhiên, việc quy định các trường hợp theo Điểm d, Khoản 2, Điều 416 kể trên lại kèm theo điều kiện phải có ít nhất một trong các bên đương sự là người nước ngoài là không hợp lý và xa lạ với xu hướng chung trên thế giới. Bởi vì, thực tiễn điều chỉnh pháp luật về nội dung ở các quốc gia trên thế giới (trong đó có cả Bộ luật Dân sự Việt Nam), chủ thể của các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài không phải bao giờ cũng có ít nhất một bên đương sự là người nước ngoài. Điều này cũng được quy định trong khoản 2 Điều 411 của bản Dự thảo này. Do vậy, một vấn đề hợp lý đặt ra ở đây là nếu cũng với các vụ việc như vậy mà cả hai bên đương sự là công dân Việt Nam thì sao (?). Liệu toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết không (?). Nếu có thì tại sao lại phải kèm theo điều kiện như vậy (?). Nếu không thì hoá ra chính công dân Việt Nam lại không có điều kiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình ở ngay toà án của mình đối với cùng vụ việc khi mà người nước ngoài có quyền đó. Do vậy theo chúng tôi phần này nên sửa theo cách như sau: "Các vụ việc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có hành vi gây thiệt hại xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam". Còn các trường hợp khác đã ghi nhận trong điểm này nên bỏ đi vì đã có điểm quy định chung là nơi cư trú của bị đơn rồi.

Điểm đ khoản 2 Điều 416 quy định: "đ) Các vụ việc dân sự về các quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam...".

Điều này theo chúng tôi cũng nên bỏ đi vì có phần quy định toà án Việt Nam có thẩm quyền khi bị đơn cư trú ở Việt Nam, trong khi đó các điều kiện nêu trong điểm này thì đều có phần như vậy.
Điểm e quy định: "e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện Toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam". Cách quy định như vậy cũng không phù hợp, bởi trong các trường hợp như vậy sẽ không thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp hoặc đảm bảo thi hành quyết định của toà án bằng việc xác định dấu hiệu nơi cư trú bị đơn hoặc nơi có tài sản là đối tượng của hợp đồng. Ví dụ, nếu công dân Việt Nam là nguyên đơn đối với vụ kiện như trên, trong khi đó bị đơn cư trú ở nước ngoài hoặc tài sản ở nước ngoài, mà theo pháp luật nước ngoài, toà án nơi đó có thẩm quyền, khi đó chắc chắn công dân trên sẽ chọn toà án nước ngoài để khởi kiện trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài cùng ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia không chọn cách quy định như trên. Do vậy, theo chúng tôi, trong các trường hợp đó cần quy định rằng toà án Việt Nam có thẩm quyền khi bị đơn cư trú ở Việt Nam hoặc tài sản là đối tượng của hợp đồng ở Việt Nam. Vì thế, điểm này cần bỏ đi vì có quy định chung về thẩm quyền như trên rồi.

Do vậy, theo chúng tôi, khoản 2 Điều 416 cần quy định như sau: "2. Toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài đối với ít nhất một trong các trường hợp sau đây.

a, Bị đơn đang thường trú ở Việt Nam.
b, Tài sản đối tượng của tranh chấp ở Việt Nam.
c, Nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại ở Việt Nam đối với vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
d, Nguyên đơn là công dân Việt Nam đối với vụ việc ly hôn".

- Về Điều 417
Điều 417 quy định về thẩm quyền đặc biệt của Toà án Việt Nam. Trước hết chúng ta cần xác định thế nào là thẩm quyền đặc biệt của Toà án một quốc gia (?). Các quốc gia thường quy định thẩm quyền đặc biệt để bảo vệ lợi ích quốc gia, trật tự công cộng và các lợi ích cần thiết của công dân và pháp nhân của mình.

Thẩm quyền đặc biệt khác với thẩm quyền chung ở hai điểm. Thứ nhất, thẩm quyền chung được quy định chung cho các trường hợp, trong khi đó thẩm quyền đặc biệt chỉ quy định cho một số trường hợp cụ thể. Thứ hai, thẩm quyền chung không có tính chất bắt buộc nguyên đơn phải kiện tới toà án quốc gia đó mà có thể chọn toà án quốc gia khác, trong khi đó thẩm quyền đặc biệt có phần nào mang tính chất áp đặt (sự áp đặt thể hiện ở chỗ nếu nguyên đơn kiện ở toà án nước ngoài mà quyết định của toà án nước ngoài đó lại cần công nhận và thi hành cưỡng bức ở quốc gia quy định thẩm quyền đặc biệt đó thì quyết định trên sẽ không được công nhận và thi hành cưỡng bức).

Do vậy, việc quy định thẩm quyền đặc biệt phải xuất phát chính xác từ các lý do như chúng tôi đã nêu trên. Nếu đúng với các lý do như vậy thì thẩm quyền đặc biệt của các quốc gia ít trùng nhau. Bởi vì, nếu có sự trùng nhau thì xuất hiện nguy cơ là nguyên đơn không biết kiện ở đâu để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình được.

Xuất phát từ luận điểm trên chúng tôi xin có mấy ý kiến về Điểu này, Khoản 1, Điều 417 quy định: "1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết đặc biệt của Tòa án Việt Nam:

a) Vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;
cool.gif Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển, mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt Nam;
c) Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam".

Theo chúng tôi cần bỏ mục b Khoản 1 này, bởi trong tranh chấp về hợp đồng vận chuyển, bị đơn có thể là người vận chuyển hoặc khách hàng. Trong trường hợp khách hàng là bị đơn thì việc người vận chuyển kiện khách hàng tại quốc gia nơi khách hàng cư trú là thuận tiện hơn cả. Tại sao trong trường hợp này lại cho rằng thẩm quyền đặc biệt của toà án Việt Nam. Do vậy, trong trường hợp này theo chúng tôi cứ để việc xác định thẩm quyền theo thẩm quyền chung là phù hợp. Bởi nếu chúng ta quy định như vậy thì lý do của việc bảo vệ trật tự công cộng và an ninh quốc gia không giải thích được mà có nguy cơ các hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển Việt Nam đáng ra ký được thì lại không thể ký khi chúng ta khoanh vùng cứng trong vấn đề thẩm quyền quốc tế. Bởi các bên có thể sẽ e ngại không muốn hợp tác do vì e ngại tranh chấp giữa họ sẽ không được giải quyết một cách thuận lợi ở Việt Nam.

Các văn bản liên quan