Sửa thế nào để có một Hiến pháp đích đáng?
Sửa thế nào để có một Hiến pháp đích đáng?
Tác giả: Tô Văn Trường
Theo TS Tô Văn Trường, "nhận thức về bản chất của Hiến pháp, sẽ
chỉ rõ cho chúng ta khi muốn sửa Hiến pháp phải làm những việc gì, làm như thế
nào, khi nào để một văn bản tự nhận là Hiến pháp đáng gọi là Hiến pháp".
LTS: Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội
nhập sâu với thế giới, thể chế chính trị và hệ thống pháp luật của Việt
Hiến pháp là tiếng nói của nhân dân làm chủ quốc gia đó
Đánh giá một quốc gia, người ta thường nhìn vào bản Hiến pháp bởi nó là một
hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản, thiết lập thủ tục, quyền
hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia đều rất
cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền.
Quốc hội đang có chủ trương sửa lại Hiến pháp năm 1992, không những là cơ sở
để sửa những luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và
quyền bầu cử mà còn là cơ hội để rà soát, đánh giá lại toàn bộ về bản Hiến pháp
đối với yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Hiến pháp là một văn kiện
thiêng liêng của mỗi quốc gia, là văn bản tối cao của pháp luật quy định những
vấn đề cơ bản nhất của nhà nước đó.
Bản chất của Hiến pháp là những quy định pháp luật mà văn bản pháp luật là
những điều quy tắc ứng xử, bắt buộc đối với mọi đối tượng sống trên lãnh thổ
quốc gia cho nên khi sửa phải rất thận trọng, bài bản, khoa học và thực tế.
Hiến pháp của một quốc gia là tiếng nói của nhân dân, của dân tộc làm chủ quốc
gia đó, biểu thị sự lựa chọn và quyết định thể chế của dân tộc, ý chí và tâm
nguyện của dân tộc.
Nhận thức về bản chất của Hiến pháp, sẽ chỉ rõ cho chúng ta khi muốn sửa
Hiến pháp phải làm những việc gì, làm như thế nào, khi nào để một văn bản tự
nhận là Hiến pháp đáng gọi là Hiến pháp. Trên thế giới này, xưa nay đã từng có
những bản mạo danh Hiến pháp, là sản phẩm của một số người mạo danh dân tộc.
Xin lưu ý rằng, giá trị của một bản Hiến pháp hoàn toàn vừa đúng bằng, không
hơn, không kém, giá trị của sự thực hiện Hiến pháp ấy. Những nhà nghiên cứu có
kinh nghiệm thường đánh giá một bản Hiến pháp dựa trên sự phân tích thực tế
thực hiện hay không thực hiện, thực hiện trung thành hay thực hiện bóp méo các
điều khoản, và các câu chữ của văn bản Hiến pháp ấy.
Trở lại với những tinh túy của Hiến pháp 1946
|
Bản Hiến pháp 1946 được đánh giá như một nội
dung mẫu mực của một bộ luật cơ bản xác lập thể chế Dân chủ - Cộng hoà, không
chỉ xác lập một sự tiến bộ vượt bậc trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt
Nam mà còn xác định một thể chế tiên tiến trong nền chính trị của thế giới. |
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945, đọc tại
vườn hoa Ba Đình lịch sử, mở đầu, Người đã dựa vào lời bất hủ trong bản Tuyên
ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp năm 1791: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận
Việt Nam, là Văn kiện pháp lý đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trên trường quốc tế. Bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 của Hồ Chủ
Tịch văn chương sắc sảo, giản dị, dễ hiểu, lay động lòng người, phản ánh tư tưởng
của Người: Dân tộc muốn đi lên, phải biết thừa kế các tinh hoa của nhân loại.
Với tầm vóc của lãnh tụ, Người lập luận vô cùng sắc sảo, đanh thép, chân lý,
hào khí của dân tộc: "Nếu nước nhà được độc lập mà dân chúng không có
tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ rất đơn giản, thiết thực nghĩa là mọi
người dân có quyền được mở miệng hay nói cách khác Hiến pháp phải thể hiện được
quyền phúc quyết của người dân.
Nếu dùng phương pháp "tham chiếu" sẽ thấy Hiến pháp
1946 thể hiện tuyệt vời Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch bởi lẽ nó đúng, đủ
và giản dị, thể hiện dễ hiểu thành Hiến pháp với tất cả tinh thần của Tuyên
ngôn độc lập.
Thực ra, thể hiện Tuyên ngôn độc lập như thế vào Hiến pháp là việc rất khó
nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm được. Đương nhiên, thời ấy câu chữ có
phần mộc mạc để cho mọi người dân dễ hiểu nên vấn đề tam quyền phân lập được
viết ra dưới dạng rất "bình dân", nhưng mà vẫn đủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển của đất nước, phải hướng tới tương lai, chúng ta
không bao giờ muốn "bao giờ cho đến ngày xưa" nhưng éo le thay, thời
đại ngày nay vấn đề sống còn của đất nước là phải trở lại, học hỏi những tinh
túy của Hiến pháp 1946.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ 3/9/1945, Hồ Chủ tịch đã có chỉ
thị nhiệm vụ cấp bách phải xây dựng bản Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền
tự do dân chủ. Theo sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Hồ Chủ Tịch Ban
soạn thảo Hiến pháp 1946 của Chính phủ lâm thời do 7 người chủ trì: Hồ
Chí Minh, Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thái Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến,
Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).
Tháng 11/1945, bản Dự án Hiến pháp của nước Việt
Ngày 2/3/1946, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, Quốc hội đã bầu Ban Dự
thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy
Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu
Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Đây là các trí thức tiêu biểu, có
người chưa phải là đảng viên.
Căn cứ vào bản Dự án của Chính phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Uỷ ban
kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh
nghiệm soạn Hiến pháp của các nước, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội đã soạn
thảo một Dự án Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29/10/1946,
Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các
nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số
để tham gia tu bổ thêm bản Dự án.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ 28/10 đến 9/11/1946, lần đầu tiên
Quốc hội Việt
Hiến pháp 1946 khá đơn giản, có 70 điều, được xây dựng trên tư tưởng pháp
quyền, tự do dân chủ của công dân, và quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà
nước.
Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 được thể hiện trong 3 nguyên tắc cơ
bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp,
tôn giáo trên cơ sở của nhà nước pháp quyền với quyền tự do dân chủ của công
dân. Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta thời ấy nên Hiến pháp 1946 tuy có nhiều
tiến bộ nhưng vẫn còn có mặt bị hạn chế, phải dung hòa. Cụ Nguyễn Sơn Hà là đại
biểu Quốc hội Khóa I của Việt
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1789 có
tính quốc gia hiện đại lâu dài nhất trên thế giới nhưng thực ra, nó cũng chịu
ảnh hưởng của Hiến pháp Anh. Xin ghi lại nguyên văn câu đầu tiên của Hiến pháp
Hợp chủng quốc Mỹ (từ "Hợp chủng quốc" dịch không chuẩn từ
"United States") " CHÚNG TÔI, NHÂN DÂN Hợp chủng quốc, với mục
đích thực hiện một sự liên hiệp chặt chẽ hơn, thiết lập công lý, duy trì an
ninh nội bộ, trù liệu công cuộc phòng thủ chung, phát triển sự thịnh vượng toàn
diện và bảo đảm cho chúng tôi và hậu thế của chúng tôi các lợi ích của sự tự
do, quyết định và thiết lập hiến pháp này cho Hợp chủng
quóc Mỹ".
Câu nói trên, là của những người biết cách viết Hiến pháp. Còn chất lượng
của Hiến pháp, và nhất là giá trị của sự thực hiện Hiến pháp, thì phải nghiên
cứu, phân tích trong thực tế cuộc sống. Hiện nay, ở nước ta một số người vẫn có
phần úy kỵ với tam quyền phân lập mà hay dùng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Nếu đi sâu phân tích về tam quyền phân lập, bản chất là 3 nhánh
quyền lực không chỉ phân lập mà còn kết hợp hài hòa chặt chẽ và kiểm tra giám
sát lẫn nhau trên nền tảng là trung thành với nhân dân.
Văn bản luật của một nhà nước gồm một hệ thống từ Hiến pháp đến các văn bản
lập pháp ban hành và hướng dẫn thực hiện. Pháp luật nhà nước là công cụ phục vụ
cho các giá trị xã hội cho nên Đảng phải chủ động đặt lên bàn nghị sự thảo luận
những vấn đề cốt lõi của thể chế hiện nay.
Ba quan điểm sửa đổi Hiến pháp 92
Hiến pháp 1992 gồm 12 chương, 147 điều được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày
15/4/1992 do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký.
Nếu đọc kỹ bản Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có Lời
nói đầu 2 trang, 6 đoạn, cần phải sửa để người đọc thấy rõ đó là lời của nhân
dân Việt
Theo chúng tôi hiểu, hiện nay có 3 quan điểm sửa đổi Hiến pháp 1992.
Thứ nhất, là chỉ sửa một số điểm trong Hiến pháp để làm cơ sở sửa những luật
cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước nhằm bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện và cho
Thủ tướng Chính phủ quyền bổ nhiệm các chủ tịch tỉnh, cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và quyền bầu cử. Có thể nói đây là quan điểm cho mục tiêu trước mắt.
Quan điểm thứ hai là trả lại cho dân quyền làm chủ đích thực: "Dân
làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là
Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà
nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo
Hiến pháp và những quyết định đó của Dân". Ông Nguyễn Văn An đã có
thời kỳ đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Quốc hội. Qua trải nghiệm của thời gian,
thấy rõ những khiếm khuyết, bất cập của Hiến pháp 1992 nên Ông đã mạnh dạn đề
xuất quan điểm thứ hai nói trên hay nói cách khác đây là mục tiêu lâu dài.
Sửa đổi Hiến pháp 1992 là một dịp rất tốt để thúc đẩy quá
trình dân chủ hóa do Đảng phát động thông qua dư luận xã hội. Ý kiến của xã
hội dân sự lành mạnh sẽ là chỗ dựa tin cậy và chắc chắn cho lực lượng cầu thị
trong Đảng. |
Quan điểm thứ ba dựa trên thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát
triển, cần Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả nước đi vào quá
trình dân chủ hoá đất nước.
Chúng tôi nhận thấy những ý kiến nêu trên rất cần thiết phân tích, đánh giá.
Những người đương chức, có trách nhiệm cần sắp xếp, thể hiện tính lô-gích
nội tại của sự vật, của thực tế bởi vì Hiến pháp 1992 không đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội sau 20 năm đổi mới.
Thiệt thòi là lịch sử phát triển xã hội ở nước ta không trải qua thời kỳ tư
bản chủ nghĩa nên không có được kinh nghiệm tri thức và cơ sở vật chất cho nên
phải mò mẫm theo định hướng riêng, do đó, gặp phải nhiều khó khăn, trắc trở
cũng là điều dễ hiểu. Trong thời đại hội nhập và phát triển chúng ta cần phát
huy tính tự cường của dân tộc, đồng thời khiêm tốn, học hỏi các tinh hoa của
nhân loại để tiến cùng thời đại.
Người dân luôn quan tâm làm thế nào để Hiến pháp được thực thi một cách minh
bạch, hữu hiệu trong đời sống thực tế. Ngay bản Hiến pháp trước đây của Liên Xô
trên văn bản là đảm bảo quyền tự do lập hội hay quyền tự do ngôn luận nhưng
thực tế diễn ra không phải như vậy. Ở các nước tiên tiến, Hiến pháp được bảo vệ
bằng Tòa án Hiến pháp hoặc Tòa án tối cao.
Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 để có thể áp dụng hữu hiệu trong thực tế, đáp
ứng nhu cầu hội nhập và phát triển, phải được xây dựng trên tư duy phân rõ
trách nhiệm, quyền hạn, và giám sát lẫn nhau của 3 cơ quan trong tổ chức bộ máy
nhà nước: Lập pháp - Hành pháp và Tư pháp; Các cơ quan Truyền thông, báo chí và
Kiểm toán độc lập không nằm trong bộ máy tổ chức nhà nước nhưng là trung tâm
quyền lực xã hội cần được luật hóa bảo đảm quyền lực trong xã hội dân sự, đồng
thời chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội. Nói cách nôm na, xã hội cần có
5 trung tâm quyền lực nói trên hay còn gọi là "ngũ quyền" để
kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Sửa đổi Hiến pháp 1992 có thể xem là một dịp rất tốt để thúc đẩy quá trình
dân chủ hóa do Đảng phát động thông qua dư luận xã hội. Ý kiến của xã hội dân
sự lành mạnh sẽ là chỗ dựa tin cậy và chắc chắn cho lực lượng cầu thị trong
Đảng.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, mọi sự cải cách cơ bản chỉ có thể do bộ
phận lãnh đạo chủ chốt của Đảng phát động, chỉ đạo thực hiện và phải thực sự
cầu thị lấy tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu phát triển của thời đại làm nền
tảng.
Hiến pháp dân chủ về bản chất nhân dân phải là người ra quyết định làm chủ
quốc gia. Nội dung chủ yếu của các quyết định ấy được tạo thành hệ thống pháp
luật. Nguyên tắc quan trọng nhất là tất cả quyền bính trong nước đều thuộc về
nhân dân. Bởi vậy, chúng tôi đề nghị khi sửa bản Hiến pháp 1992 ,
thì ngay câu đầu tiên phải viết như sau:
"Chúng tôi, dân tộc Việt Nam quyết định và công bố những điều khoản sau đây, với trách nhiệm lịch sử trước các thế hệ người Việt Nam hiện nay và mai sau, trước các dân tộc, các quốc gia trong cộng đồng quốc tế" .
Bài đã được xuất bản.: 26/07/2010
Theo ViẹtNamNet