Rối rắm chế tài dân sự, thương mại
RỐI RẮM CHẾ TÀI DÂN SỰ,
THƯƠNG MẠI
NGUYÊN TẤN
Không phải
không có lý khi mới đây Đại học Luật TPHCM tổ chức hẳn một cuộc hội thảo với
chuyên đề “Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam”.
Các chuyên gia cho rằng quy định của pháp luật về các biện pháp chế tài trong
cả lĩnh vực dân sự lẫn thương mại vẫn còn nhiều bất cập, gây không ít lúng túng
cho việc áp dụng, thực thi.
Những khác
biệt khó hiểu
Bà Lê Mai Hương, giảng viên Học
viện Tư pháp, kể lại câu chuyện như sau. Cách đây không lâu bà được một nhà
thầu nhờ tư vấn để giúp họ giải quyết tranh chấp. Nguyên nhà thầu này đã thực
hiện gần xong một công trình, tuy nhiên phía chủ đầu tư lại dây dưa, không chịu
thanh toán tiền cho đối tác của mình. Nhà thầu hỏi liệu họ có quyền làm rào
chắn ngăn không cho chủ đầu tư tiếp cận công trình được không? Tìm hiểu Bộ luật
Dân sự 2005 (BLDS 2005) và Luật Thương mại 2005 (LTM 2005), bà Hương phát hiện
ra một vấn đề lý thú: trong khi điều 416, BLDS 2005 có quy định về chế tài cầm
giữ tài sản thì chế tài này lại hoàn toàn vắng bóng trong tất cả bảy biện pháp
chế tài được quy định tại điều 292, LTM 2005.
Câu hỏi đặt ra là liệu có thể áp dụng
chế tài cầm giữ tài sản đối với mọi hợp đồng thương mại hay không? Ý kiến thứ
nhất khẳng định là có thể vì BLDS 2005 sẽ được áp dụng khi các luật chuyên
ngành không quy định một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng
điều 292 LTM 2005 là một quy định khác biệt về chế tài thương mại; do đó nếu
điều 292 LTM 2005 không nói về cầm giữ tài sản thì không thể áp dụng chế tài
trong thương mại.
Trên đây chỉ là một trong những
trường hợp cho thấy sự thiếu đồng bộ, thậm chí đến mức khó hiểu, trong các quy
định liên quan đến chế tài giữa BLDS 2005 và LTM 2005 – hai đạo luật trụ cột
điều chỉnh các quan hệ dân sự và thương mại của xã hội.
Có thể dẫn ra vô số thí dụ khác.
Chẳng hạn, LTM 2005 không coi yếu tố lỗi để quy kết trách nhiệm bồi thường
thiệt hại (điều 303) trong khi theo khoản 1, điều 308, BLDS 2005 người không
thực hiện nghĩa vụ dân sự chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi.
Khái niệm phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại cũng được quy định khác nhau. Theo bà Hương, LTM 2005 quy định
phạt vi phạm không phải là việc ấn định trước khoản tiền bồi thường thiệt hại
mà là biện pháp trừng phạt bên vi phạm hợp đồng, độc lập với chế tài bồi thường
thiệt hại. Ngược lại, dù cũng xem phạt vi phạm là một chế tài độc lập nhưng
BLDS ít nhiều chịu ảnh hưởng của việc coi phạt vi phạm là việc các bên ấn định
trước khoản tiền bồi thường thiệt hại.
Vì vậy, BLDS 2005 quy định rằng
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm (khoản 3, điều 422 BLDS). Còn theo
LTM 2005, nếu các bên có thỏa thuận phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về bồi
thường thì bên bị vi phạm vẫn có quyền áp dụng cả chế tài vi phạm lẫn buộc bồi
thường thiệt hại (điều 307).
Hoặc như quy định về mức phạt.
BLDS 2005 thì cho phép các bên được tự do thỏa thuận mức phạt (khoản 2, điều
422) trong khi theo LTM 2005 mức phạt lại bị khống chế, không được vượt quá 8%
giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (điều 301). “Các nước theo hệ thống
luật Anh-Mỹ không hề giới hạn mức phạt hợp đồng. Luật Liên bang Nga cũng bỏ chế
định này từ lâu rồi. Nếu vậy thì đây là một loại “đặc sản” – hệ quả của thời
bao cấp chỉ có ở Việt Nam mà thôi!” – TS. Dương Anh Sơn, giảng viên Đại học
Quốc gia TPHCM, phát biểu.
Gây thêm khó
khăn
Các chuyên gia pháp lý cho rằng
những bất cập của BLDS 2005 và LTM 2005 không chỉ làm ảnh hưởng đến sự đồng bộ
cần thiết trong một chỉnh thể pháp luật thống nhất mà còn tạo nên rủi ro cho
các chủ thể tham gia giao dịch.
Bà Hương đưa ra dẫn chứng. Có hai
công ty nọ dự định hợp tác với nhau trong lĩnh vực thăm dò dầu khí, khi ký hợp
đồng đã đưa ra thỏa thuận rằng nếu một bên vi phạm thì sẽ phải bồi thường hoặc
chịu một khoản tiền phạt cho bên kia một triệu đô la Mỹ. Dù là tự nguyện thỏa
thuận nhưng thỏa thuận ấy nếu “căn” theo LTM 2005 thì sẽ rất khó được chấp nhận
vì khoản tiền phạt có thể vượt mức 8% cho phép, còn muốn bồi thường thì phải
chứng minh có thiệt hại thực tế đã xảy ra (theo khoản 2, điều 303, LTM 2005 một
trong các căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại là phải có thiệt hại thực tế).
“Do vậy nên dù hợp đồng có thỏa
thuận đi chăng nữa mà một bên cố tình vi phạm thì cũng khó đòi được khoản bồi
thường thiệt hại. Bên vi phạm sẽ vin vào lý do thỏa thuận trái pháp luật để né
trách nhiệm. Với những trường hợp như trên, tôi chỉ còn cách khuyên khách hàng
hãy cố gắng chọn đối tác tử tế thôi”, một luật sư chia sẻ.
Một vấn đề bất cập khác là nợ
chậm trả. LTM 2005 quy định trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán nếu
không có thỏa thuận khác thì phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (điều
306). Trong khi đó, cũng tương tự như vậy nhưng theo BLDS 2005 lãi suất chậm
trả ở đây lại tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời
điểm thanh toán (khoản 2, điều 305).
Cả hai quy định khác nhau nói
trên đều gây khó khăn cho người thực thi. Lãi suất nợ quá hạn trung bình trên
thị trường là như thế nào? Là phải lấy số liệu của tất cả các ngân hàng thương
mại trên thị trường hoặc chỉ một số ngân hàng trong khu vực nơi tranh chấp hay
chỉ cần thị trường liên ngân hàng? Trên thực tế, để xác định con số này khi
giải quyết tranh chấp mỗi tòa án đã có những yêu cầu rất khác nhau. Đặc biệt,
quy định về lãi suất chậm trả tính theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước,
theo luật sư Huỳnh Văn Nông, thực chất là đang khuyến khích cho người trả nợ
chậm trễ và làm thiệt hại cho người bị vi phạm. “Lãi suất cơ bản hiện nay là 8%
trong khi lãi suất tiền gửi mười mấy phần trăm. Vậy thì dại gì tôi mang tiền đi
trả?”.
Luật sư Nông cho rằng quy định
trên nên được sửa lại theo hướng tăng lãi suất chậm trả ít nhất là gấp hơn 3
lần so với lãi suất cơ bản thì mới bù đắp được thiệt hại cho người bị vi phạm.
Còn theo thẩm phán Nguyễn Văn Cường, Phó viện trưởng Viện Khoa học xét xử
TANDTC và bà Nguyễn Thị Thu Hồng, chuyên viên TANDTC, nên lấy lãi suất cho vay
tại thời điểm xét xử sơ thẩm để xác định lãi suất chậm trả khi giải quyết tranh
chấp sẽ phù hợp hơn.
TS. Đỗ Văn Đại, giảng viên Đại
học Luật TPHCM, cho biết thêm một kinh nghiệm ở Pháp là ngoài các biện pháp chế tài luật định tòa án ở đây còn hình thành một loại chế tài bổ sung.
Theo đó, tòa án có quyền phạt bên có nghĩa vụ thanh toán phải chịu lãi chậm trả
với mức rất cao nếu họ vẫn không thi hành nghĩa vụ thanh toán theo bản án.
“Hiện nay, các bản án của chúng ta chỉ giới hạn ở việc tuyên buộc người có
nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng và chưa đi xa hơn như thực tiễn xét xử hay
văn bản của Pháp trong việc bổ sung chế tài “phạt”, ông Đại phân tích.
TS. Dương Anh Sơn cho biết trong
nhiều hợp đồng bên soạn thảo thường đưa vào những điều khoản hạn chế mức bồi
thường thiệt hại bởi với kinh nghiệm của mình họ thấy rằng họ có khả năng vi phạm
hợp đồng trong tương lai. Phổ biến nhất là các hợp đồng mua bán căn hộ, nhà
đất… Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có sự điều chỉnh hợp lý những tình
huống này. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự Liên bang Nga quy định rằng nếu người
vi phạm thu lợi từ việc vi phạm thì người bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi
thường từ khoản lợi đó. Theo ông Sơn, luật dân sự của Việt Nam nên có quy định
tương tự.
Về những điểm “đồng sàng dị mộng”
giữa hai đạo luật, bà Lê Mai Hương cho rằng có vẻ như BLDS 2005 chịu ảnh hưởng
nhiều từ hệ thống Dân luật (Civil law), ngược lại LTM 2005 chịu ảnh hưởng từ hệ
thống Thông luật (Common law). “Nếu nhất trí được cách tiếp cận chủ đạo thì
chắc chắn sẽ có được tiếng nói chung thống nhất về chế tài áp dụng cho vi phạm
hợp đồng và như vậy không nhất thiết phải có hẳn một quy định riêng về chế tài
áp dụng cho các hợp đồng thương mại”, bà Hương đề nghị.
SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ
SÀI GÒN