Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin

Thứ Năm 14:22 10-12-2009

Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin

Cùng với phạm vi thông tin được tiếp cận và các quy định bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin...

Cùng với phạm vi thông tin được tiếp cận và các quy định bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin, phạm vi các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin là ba nội dung cơ bản và quan trọng nhất của một luật tiếp cận thông tin. Tuy mỗi nội dung có vai trò khác nhau, nhưng ý nghĩa, tác dụng của nội dung này không thể phát huy nếu nội dung kia không được quy định một cách phù hợp. Dù cho phạm vi các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin được quy định rộng, nhưng nếu phạm vi thông tin được tiếp cận lại hẹp do có quá nhiều thông tin thuộc trường hợp ngoại trừ, thì quyền tiếp cận thông tin của công chúng sẽ không mang lại nhiều ý nghĩa. Tương tự, dù cho cả phạm vi thông tin được tiếp cận và chủ thể cung cấp thông tin được quy định rộng nhưng trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin lại phức tạp, không thuận tiện cho người dân, thì quyền tiếp cận thông tin cũng chỉ mang tính hình thức và thiếu tính khả thi.

1. Quy định của một số nước về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin

Luật về quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ của Nhật Bản được ban hành năm 1999. Theo quy định của Luật, khi có nhu cầu, người dân được quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước công bố các tài liệu hành chính do cơ quan đó nắm giữ (1). Khái niệm “cơ quan hành chính nhà nước” được hiểu bao gồm các cơ quan của Nội các, các cơ quan chịu sự kiểm soát của Nội các theo quy định của pháp luật; các cơ quan được các luật khác quy định là cơ quan hành chính nhà nước và Uỷ ban Kiểm toán. Các cơ quan lập pháp, tư pháp cũng như các doanh nghiệp nhà nước không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Tuy nhiên, Luật quy định trong vòng 02 năm kể từ ngày Luật được thông qua, luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của các doanh nghiệp nhà nước phải được ban hành (2). 

Hiến pháp năm 1993 của Peru quy định bảo đảm quyền của công chúng được tiếp cận đối với các thông tin do cơ quan công quyền nắm giữ. Gần 10 năm sau, để cụ thể hoá quy định này, Luật Minh bạch và tiếp cận thông tin được thông qua (3). Điều 2 của Luật quy định các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin là những cơ quan được quy định tại Luật Thủ tục hành chính, bao gồm các cơ quan thuộc cả 3 lĩnh vực hành pháp (các bộ và các đơn vị phân cấp), lập pháp và tư pháp; chính quyền địa phương và khu vực; tất cả các cơ quan được Hiến pháp hoặc luật trao quyền tự trị; các tổ chức, bộ phận, dự án, chương trình của Nhà nước mà hoạt động của các đơn vị có sử dụng quyền lực hành chính; các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ công hoặc cung cấp dịch vụ hành chính do Nhà nước ủy quyền, trao quyền hoặc thuê khoán; doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Luật quy định các đơn vị, tổ chức tư nhân cũng có trách nhiệm công khai nội dung, biểu phí, dịch vụ công mà các đơn vị, tổ chức này thực hiện hoặc cung ứng (4).

Ngoài quy định bảo đảm quyền tiếp cận thông tin do cơ quan nhà nước nắm giữ, Hiến pháp năm 1996 của Nam Phi còn quy định quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan, tổ chức tư nhân nắm giữ nếu thông tin đó là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Năm 2001, với mục đích cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Luật Tăng cường quyền tiếp cận thông tin được thông qua (5). Theo quy định của Luật này, cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin là các cơ quan bộ, cơ quan hành chính ở trung ương, cấp tỉnh và bất cứ cơ quan tổ chức nào thực hiện quyền hạn được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật do cấp tỉnh ban hành. Các cơ quan, tổ chức thực hiện quyền lực hoặc nhiệm vụ công được quy định trong bất cứ văn bản luật nào khác cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin. Tuy nhiên, Luật không áp dụng đối với Nội các và các ủy ban trực thuộc Nội các, Tòa án, Thẩm phán và Đại biểu Quốc hội. Đối với cơ quan, tổ chức tư nhân, Luật quy định đó là cá nhân, pháp nhân, hoặc liên doanh liên kết thực hiện kinh doanh, hoạt động thương mại.

Luật Tiếp cận thông tin của Thái Lan được thông qua năm 1997 (6) là hiệu pháp xoa dịu sự bất bình của người dân trước nạn tham nhũng và thiếu công khai, minh bạch trong quản lý điều hành Nhà nước - một trong những nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Đây được đánh giá là đạo luật tiến bộ với phạm vi áp dụng rộng. Theo quy định của Luật, thông tin được tiếp cận là thông tin mà các cơ quan nhà nước đang nắm giữ, dù thông tin đó liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước hay cá nhân. Khái niệm “cơ quan nhà nước” bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh và địa phương, doanh nghiệp nhà nước, cơ quan thuộc Chính phủ, Quốc hội, Tòa án (trừ những thông tin liên quan đến xét xử các vụ án), cơ quan giám sát chuyên môn, các cơ quan độc lập của Nhà nước và các cơ quan khác được quy định trong quy chế hoạt động các Bộ. Quy định này bao quát hầu hết các cơ quan thuộc hành pháp, lập pháp và tư pháp cũng như một loạt các tổ chức khác, nhưng không bao gồm các tổ chức, cơ quan tư nhân có sử dụng ngân sách nhà nước.

Mê-hi-cô là một trong những quốc gia ban hành luật về quyền tiếp cận thông tin sớm nhất ở châu Mỹ La tinh (7). Luật về Quyền đối với thông tin của Mêhicô là sự cam kết của Chính phủ trong công cuộc phòng, chống tham nhũng tăng cường dân chủ và được coi là đạo luật tiến bộ nhất. Theo quy định của Luật, chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin bao gồm: Cơ quan hành pháp liên bang và Cơ quan nhà nước liên bang; Cơ quan lập pháp liên bang (Hạ viện, Thượng viện, các Uỷ ban và các cơ quan khác của Nghị viện); Toà án liên bang và Hội đồng Toà án liên bang; các cơ quan do Hiến pháp quy định (bao gồm Cơ quan bầu cử liên bang, Uỷ ban quốc gia về các quyền con người, Ngân hàng Mêhicô, các trường đại học...); các Toà án hành chính liên bang và các cơ quan liên bang khác. Các cơ quan này được gọi chung là các cơ quan được quy định trong Luật Hành chính công theo Hiến pháp liên bang, trong đó bao gồm cả Tổng thống và các thiết chế hành chính được uỷ quyền, ví dụ như Văn phòng Tổng chưởng lý.

Như vậy, ngoại trừ luật của Nhật Bản chỉ quy định trách nhiệm cung cấp thông tin đối với cơ quan hành chính, hầu hết luật của các nước đều quy định trách nhiệm cung cấp thông tin đối với ba loại cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp. Mặc dù Toà án được quy định là cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, nhưng chỉ giới hạn trong các thông tin không liên quan tới việc xét xử các vụ án. Cơ sở của việc quy định trách nhiệm cung cấp thông tin đối với cả ba nhánh quyền lực là các cơ quan này đều có thông tin mà người dân quan tâm và cần được công khai; còn việc bảo vệ những thông tin mật, qua đó, bảo vệ lợi ích chính đáng sẽ được thực hiện thông qua cơ chế ngoại lệ. Bên cạnh đó, cũng có một phương pháp tiếp cận để bảo đảm sự hài hoà giữa trách nhiệm và tính chất hoạt động của các cơ quan, đó là quy định cụ thể trách nhiệm với cơ quan hành pháp, sau đó, quy định trách nhiệm chung đối với cơ quan lập pháp và tư pháp (8). Phương pháp này đã được Mêhicô thực hiện.

Cũng có luật một số nước mở rộng phạm vi áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Xuất phát điểm của quy định này là để bảo đảm quyền thông tin - quyền con người thì tất cả các cơ quan, tổ chức sử dụng quyền lực công hoặc tài sản, ngân sách do người dân đóng góp đều phải có trách nhiệm cung cấp thông tin, dù cơ quan đó được hình thành dưới hình thức nào và hoạt động theo nguyên tắc nào. Riêng đối với luật của Nam Phi, trách nhiệm cung cấp thông tin còn quy định đối với các tổ chức tư nhân có hoạt động thương mại. Tuy nhiên, thực tế thực hiện cho thấy tính hiệu quả của quy định này là rất thấp (9).

2. Quy định chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin trong Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm đối với việc bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng đã xác định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân là một trong những phương hướng cơ bản, quan trọng nhất trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp năm 1992 cũng ghi nhận quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của công dân (Điều 69). Trên cơ sở các văn kiện của Đảng, quy định của Hiến pháp, nhiều luật, pháp lệnh đã được ban hành (10).

Tuy nhiên, dù trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đã được quy định, nhưng còn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng và chưa có tính ràng buộc trách nhiệm cao. Điều này dẫn đến tình trạng là chỉ một số cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin và những thông tin được công khai cũng chỉ giới hạn trong phạm vi những thông tin theo các quy định của văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, khi có nhu cầu tiếp cận thông tin, người dân không biết mình cần đến đâu và hỏi ai; còn cơ quan nhà nước cũng không biết mình có được phép cung cấp thông tin hay không và nếu người dân yêu cầu thì các cơ quan nhà nước rất lúng túng trong việc tìm cơ sở pháp lý để giải quyết.

Quyền tiếp cận thông tin của công chúng gắn liền với trách nhiệm phải cung cấp thông tin của các cơ quan là chủ thể nắm giữ thông tin. Do vậy, quy định rõ những cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông một mặt sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan trong việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, giải toả tâm lý e ngại phải chịu trách nhiệm của cán bộ, công chức khi cung cấp thông tin; mặt khác, tránh cho người dân những khó khăn, lúng túng trong việc xác định cần đến cơ quan nào để yêu cầu cung cấp thông tin. Việc xác định một phạm vi hợp lý các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin mang lại lợi ích cho cả hai phía, Nhà nước và người dân (11).

Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật, có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định các chủ thể nào cần phải cung cấp thông tin:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin chỉ nên giới hạn trong phạm vi các cơ quan hành chính nhà nước, bởi lẽ đây chính là nơi nắm giữ nhiều thông tin trực tiếp liên quan đến người dân nhất, đồng thời, đây cũng là khu vực mà tình hình công khai thông tin còn nhiều tồn tại, bức xúc. Hơn nữa, cần có lộ trình thực hiện quyền tiếp cận thông tin có tính khả thi cao. Do đó, trong giai đoạn này chỉ quy định về trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan hành chính nhà nước vì các cơ quan đã được làm quen với cơ chế công khai thông tin theo quy định của các văn bản pháp luật khác và đây là cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện Luật một cách hiệu quả. Sau đó, khi các điều kiện chín muồi, sẽ bổ sung thêm các cơ quan quyền lực, cơ quan tư pháp, các tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước vào đối tượng điều chỉnh của Luật.   

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, chủ thể cần phải cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước (bao gồm cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính và Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân).

- Loại ý kiến thứ ba cho rằng, chủ thể cần phải cung cấp là tất cả các cơ quan nhà nước (bao gồm cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp) và các tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước. Theo loại ý kiến này, do tất cả các cơ quan, tổ chức nêu trên đều sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước, nên dù ít hay nhiều đều nắm giữ một số thông tin công và đều thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức, người lao động... vì vậy, việc công khai những thông tin do các cơ quan, tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước nắm giữ là cần thiết.

Có thể thấy rằng, trong số các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin, có thể thấy chủ thể có liên quan nhiều nhất là các cơ quan hành chính nhà nước. Các văn kiện của Đảng cũng như các văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong thời gian qua luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc công bố công khai, cung cấp một số thông tin do mình nắm giữ. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là nhiệm vụ được Luật Tổ chức Chính phủ, Quy chế làm việc của Chính phủ quy định đối với Chính phủ nói riêng, các cơ quan hành chính nhà nước nói chung. Trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc công khai các chủ trương chính sách, thẩm quyền và tình hình hoạt động của các cơ quan, các thủ tục hành chính... cũng được quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành. Thông tin cho người dân về tình hình đất nước, quản lý điều hành của Chính phủ, của cơ quan hành chính nhà nước là phương thức quan trọng để các cơ quan thực hiện nhiệm vụ, đồng thời, cũng là biện pháp nhằm thúc đẩy hoàn thiện một nền hành chính hiệu quả, minh bạch và gần dân. Trên thực tế, cơ chế công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã được hình thành, từng bước hoàn thiện và đã mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Các chủ thể khác như Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân cũng là những chủ thể nắm giữ các thông tin mà người dân quan tâm. Cụ thể là các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều được đăng tải công khai, kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng góp ý kiến; những vấn đề quan trọng của đất nước được thảo luận công khai; các phiên chất vấn tại Quốc hội được truyền hình trực tiếp. Bên cạnh đó, thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, các hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, tất cả những vấn đề mà cử tri quan tâm được đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trực tiếp thông báo, trao đổi với cử tri.

Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, mặc dù pháp luật chưa trực tiếp quy định trách nhiệm thông tin cho người dân, nhưng các cơ quan này thực tế cũng đã công khai những thông tin liên quan đến lĩnh vực phụ trách thông qua cơ chế trả lời chất vấn của các cơ quan quyền lực nhà nước và chịu sự giám sát của nhân dân. Thêm vào đó, cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, chủ trương từng bước công khai các bản án, phán quyết của Toà án đã xây dựng nền tảng cho việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các chương trình hoạt động, kế hoạch xét xử của Tòa án; các thông tin liên quan đến thi tuyển, bổ nhiệm nhân sự, cách thức chi tiêu tài chính của hệ thống Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cũng cần được công khai rộng rãi.

Vì vậy, tất cả các cơ quan nhà nước từ Quốc hội đến Chính phủ, chính quyền địa phương, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, với tư cách là những cơ quan thực hiện quyền lực công và nắm giữ những thông tin mà người dân cần được biết, cần phải là chủ thể cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, việc quy định các cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp có trách nhiệm cung cấp thông tin thực chất chỉ là một lần nữa khẳng định lại vai trò, trách nhiệm của các cơ quan này trong việc công khai, minh bạch các hoạt động của mình trước nhân dân. Quy định này sẽ tạo ra cơ sở pháp lý tập trung và thống nhất về trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tiếp cận thông tin và qua đó, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết, toàn diện giữa Nhà nước và nhân dân. Việc quy định tất cả các cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp không làm ảnh hưởng tới tính khả thi của văn bản, bởi vì như trên đã trình bày, ở phạm vi, mức độ khác nhau, các cơ quan đều đã quen thuộc với văn hoá công khai, hoạt động minh bạch và thực hiện trách nhiệm giải trình trước nhân dân.

Đối với các cơ quan, tổ chức khác có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước như tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội thì các thông tin do các tổ chức này nắm giữ cần được công khai chủ yếu liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách và hoạt động của các tổ chức này cũng đã được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Cán bộ, công chức, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công..., do vậy, việc tiếp cận thông tin của các tổ chức này đã được đảm bảo ở mức độ nhất định. Ngoài ra, hoạt động của các tổ chức này, bao gồm cả việc công khai thông tin, còn được quy định bởi các điều lệ của từng tổ chức.

Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, phương án phù hợp nhất là quy định trách nhiệm cung cấp thông tin đối với các cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, Viện kiểm sát, Toà án nhân dân. Đối với doanh nhiệp nhà nước, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, khi chúng ta đang thực hiện chủ trương cải cách hành chính, chuyển đổi mô hình các doanh nghiệp nhà nước thì quy mô, tính chất của các doanh nghiệp, tổ chức này sẽ có nhiều thay đổi trong thời gian tới. Trong điều kiện như vậy, nếu quy định ngay trong Dự thảo Luật trách nhiệm cung cấp thông tin đối doanh nghiệp nhà nước, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công thì khó bảo đảm được tính khả thi. Do đó, để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các tổ chức này, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức, đồng thời, để kịp thời có những điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với tình hình thực tế, Dự thảo Luật tiếp cận thông tin nên giao Chính phủ quy định cụ thể về việc tiếp cận thông tin do các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ.

Một điểm cần lưu ý khi xây dựng quy định các chủ thể có về trách nhiệm cung cấp thông tin là phải tính đến tính đặc thù của trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, theo đó, có một số cơ quan chỉ hoạt động tập trung theo kỳ họp (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), hay một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước là chức danh cụ thể (Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ); bên cạnh đó, cũng phải quán triệt chủ trương thu gọn đầu mối, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động. Do vậy, quy định về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin phải giải quyết được hai vấn đề: thông tin do chủ thể nào nắm giữ phải được công khai (tất cả các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân như đã đề nghị ở trên); cơ quan nào có trách nhiệm trực tiếp thực hiện việc cung cấp thông tin. Việc xác định cơ quan có trách nhiệm trực tiếp thực hiện việc cung cấp thông tin cần phải xem xét về mặt thực tế đó có phải là cơ quan có trách nhiệm nắm giữ, lưu giữ hay có thể có được thông tin hay không, cơ quan đó có đủ năng lực (cơ sở vật chất, nguồn nhân lực) để thực hiện trách nhiệm công khai rộng rãi thông tin, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin hay không. Theo hướng này, trong một số trường hợp có thể giao cho các văn phòng (Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân...) thực hiện việc cung cấp thông tin hoặc tập trung về một đầu mối (chẳng hạn: Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cung cấp thông tin của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân...).

(1) Luật này được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và có hiệu lực từ 1/4/2005. Xem tại AAIHAO.pdf.

(2) Năm 2002, Luật Tiếp cận thông tin do c) ác chủ thể hành chính độc lập nắm giữ đã được thông qua. Luật này có hiệu lực cùng thời điểm với Luật về Quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan hành chính nắm giữ.

(3) Luật số 27.806, bản sửa đổi tại http://www.justiceinitiative.org/db/resource2/fs/?file_id=15210.

(4) Trách nhiệm cung cấp thông tin quy định đối với các đơn vị và tổ chức tư nhân hạn chế hơn nhiều so với quy định đối với cơ quan nhà nước.

(5) Xem tại http://www.acts.co.za/constitution_of_the_republic_of_south_africa_1996.html

(6) Xem http://www.oic.gov.th/content_eng/act.htm

(7) Luật về quyền đối với thông tin của Mêhico được ban hành năm 2002. Xem NSAEBB /NSAEBB68/laweng.pdf.

(8) Theo đó, các cơ quan lập pháp, tư pháp phải thực hiện một cách tốt nhất và hiệu quả nhất để đáp ứng các tiêu chuẩn như đối với cơ quan hành chính nhưng không quy định cụ thể là các cơ quan này cần phải thực hiện những trách nhiệm cụ thể nào như đã quy định đối với cơ quan hành chính.

(9) Xem “Freedom of information: A comparative legal survey”, Toby Mendel, Second Edition, United Nations, UNESCO, Paris, 2008, trang 144.

(10) Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Đất đai; Luật Xây dựng, Luật Ngân sách; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn...

(11) Xem báo cáo Đánh giá tác động Dự thảo Luật tiếp cận thông tin, Hồ sơ trình Dự án Luật tiếp cận thông tin.

 

ThS Mai Thị Kim Huế, Bộ Tư pháp – Theo Nghiên cứu lập pháp

 

Các văn bản liên quan