Những nội dung cơ bản của Luật trách nhiệm Bồi thường của nhà nước và yêu cầu xây dựng thông tư liên tịch hướng dẫn giải quyết bồi thường trong hoạt đông thi hành án dân sự

Thứ Ba 15:18 16-03-2010

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA

LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG THÔNG TƯ LIÊN TỊCH HỨỚNG DẪN GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

(Toạ đàm JICA ngày 5/3/2010)

I. Nội dung cơ bản của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng được bồi thường

Một trong những mục đích ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là tạo cơ chế pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trước công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do đó, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không chỉ quy định về nội dung trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân bị thiệt hại mà điều chỉnh một cách toàn diện các nội dung: phạm vi các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước phải bồi thường và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong từng lĩnh vực đó (theo quy định của Luật TNBTCNN thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho tổ chức, cá nhân bị thiệt hại đối với các trường hợp được quy định cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án); thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.

Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần mà thuộc các trường hợp đã được quy định trong Luật TNBTCNN thì được bồi thường. Cá nhân, tổ chức được hiểu bao gồm cả cá nhân, tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài.

2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở quan điểm phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cần phải được quy định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật dân sự năm 2005 đã ghi nhận nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ, nhưng trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo tính khả thi của Luật này thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được xác định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Chính vì vậy, trong từng lĩnh vực, các trường hợp được Nhà nước bồi thường được liệt kê cụ thể:

2.1. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước

Theo quy định tại Điều 13 của Luật thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong 11 nhóm hành vi công vụ.

2.2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Trước khi ban hành Luật TNBTCNN, việc bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc ban hành NQ 388 một mặt phản ánh tính nhất quán và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm, tôn trọng và đề cao quyền công dân, quyền con người, do đó có ý nghĩa rất to lớn trong việc củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, mặt khác việc thực hiện Nghị quyết số 388 đã góp phần rất lớn trong việc đề cao ý thức trách nhiệm và sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, bước đầu hạn chế được các vi phạm dẫn đến làm oan do tiêu cực hoặc do thiếu trách nhiệm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện NQ 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy không có gì khó khăn, vướng mắc, vì vậy, trong quá trình xây dựng Luật TNBTCNN, các nội dung cơ bản của NQ 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành (trong đó có nội dung về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự) đã được Luật hoá.

Theo quy định tại Điều 26 thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường trong 7 trường hợp người tiến hành tố tụng hình sự gây ra oan trong hoạt động tố tụng hình sự.

2.3. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính

Đây là vấn đề bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng (trong đó có tố tụng dân sự, tố tụng hành chính) đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự và pháp luật về tố tụng, nhưng khác so với bồi thường trong tố tụng hình sự, vấn đề bồi thường trong tố tụng dân sự, hành chính chưa có pháp luật quy định cụ thể và cũng chưa có tổng kết, đánh giá. Chính vì vậy, Luật TNBTCNN chỉ quy định một số trường hợp được Nhà nước bồi thường, cụ thể là, Điều 28 quy định, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính gây ra trong 04 trường hợp.

2.4. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án

Luật TNBTCNN quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự và thi hành án hình sự như sau:

Điều 38. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây:

1. Ra hoặc cố ý không ra các quyết định:

a) Thi hành án;

b) Thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về thi hành án;

c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án;

d) Cưỡng chế thi hành án;

đ) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án.

e) Hoãn thi hành án;

g) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án;

h) Tiếp tục thi hành án.

2. Tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 39. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án hình sự

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây:

1. Người có thẩm quyền ra quyết định thi hành án tử hình không kiểm tra các điều kiện của người bị kết án, vẫn ra quyết định thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự;

2. Giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án, quyết định của Toà án;

3. Không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối với người bị kết án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.

4. Không thực hiện quyết định giảm án tù, quyết định đặc xá, quyết định đại xá.

3. Quyền yêu cầu bồi thường và căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

Quan hệ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xác định là quan hệ dân sự đặc thù, vì vậy, khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, Luật TNBTCNN không quy định quyền được yêu cầu bồi thường ngay của người bị thiệt hại mà phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật. Việc quy định như vậy là thể hiện rõ một trong những nguyên tắc xuyên suốt của Luật là Luật TNBTCNN phải bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước, tức là Luật TNBTCNN được ban hành là nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng đồng thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền, đặc biệt là giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Như vậy, nếu quy định quyền yêu cầu bồi thường ngay của người bị thiệt hại thì sẽ gây ảnh hưởng đến sự hoạt động ổn định của các cơ quan nhà nước.

Điều 4 quy định về quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường như sau:

Điều 4. Quyền yêu cầu bồi thường

1. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện việc giải quyết bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này.

2. Trong quá trình khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện vụ án hành chính, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc Toà án giải quyết việc bồi thường.

Tương ứng với quy định về quyền yêu cầu bồi thường, Luật TNBTCNN quy định về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường cũng bao gồm việc xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật, cụ thể là:

- Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án

Điều 6 Khoản 1 quy định, việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau đây:

+ Có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.

- Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự

Điều 6 khoản 2 quy định, việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau đây:

+ Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế đối với người bị thiệt hại do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra trong trường hợp quy định tại Điều 26 của Luật này.

Một điểm đáng lưu ý là mặc dù không quy định lỗi là một trong các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tuy nhiên, đây vẫn là một quan hệ dân sự, vì vậy, Luật TNBTCNN đã quy định một số trường hợp không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể là, Điều ... khoản 3 quy định các trường hợp Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường bao gồm:

+ Do lỗi của người bị thiệt hại;

+ Người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;

+ Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.

4. Thiệt hại được bồi thường

Luật TNBTCNN quy định cụ thể từng loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 45); thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 46); thiệt hại do tổn thất về tinh thần (Điều 47); thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết (Điều 48); thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ (Điều 49); trả lại tài sản (Điều 50); khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 51).

Đối với quy định về thiệt hại thực tế do thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút, Luật TNBTCNN quy định cụ thể các căn cứ để xác định thu nhập của người bị thiệt hại, riêng đối với trường hợp không thể xác định được căn cứ để tính thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương thì sẽ lấy mức lương tối thiểu chung đối với các cơ quan nhà nước làm căn cứ để tính thu nhập của người bị thiệt hại.

Đối với quy định về thiệt hại do tổn thất về tinh thần, Luật quy định phân biệt rõ đối với các trường hợp sau đây:

- Trường hợp bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là hai ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.

- Trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là ba ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.

- Trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo.

5. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường

Trước khi ban hành Luật TNBTCNN, việc thực hiện các quy định về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra trong khi thi hành công vụ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường bởi tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Ngay cả đối với việc bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, mặc dù NQ số 388 đã quy định rất cụ thể là trường hợp nào thì cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường nhưng thực tiễn thi hành NQ này cho thấy, nhiều vụ việc đã phải yêu cầu đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Chính vì vậy, Luật TNBTCNN đã quy định rất cụ thể, chi tiết việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường.

Về nguyên tắc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường được xác định là cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Tại các điều 14, mục 2 của Chương III và 40 của Luật đã quy định về cơ quan giải quyết bồi thường trong các lĩnh vực cụ thể. Vấn đề này cũng đã được quy định chi tiết tại dự thảo Nghị định.

6. Thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường.

Luật TNBTCNN quy định người bị thiệt hại phải thực hiện việc yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại giải quyết bồi thường trước khi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường. Quy định này không chỉ giúp cho người bị thiệt hại và cơ quan có trách nhiệm bồi thường có thể hiểu nhau hơn, đạt được mục đích, tránh lãng phí thời gian và tiền bạc mà còn tránh được tình trạng quá tải đối với hoạt động của hệ thống Toà án. Quy định này còn được xây dựng trên cơ sở thực tiễn là nhiều người bị thiệt hại không muốn khởi kiện ra Toà án để yêu cầu giải quyết bồi thường mà muốn giải quyết bồi thường tại chính cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại cho mình.

Về cơ bản, sau khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Cơ quan đã nhận đơn yêu cầu bồi thường và hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ yêu cầu bồi thường để thụ lý, trường hợp không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền. Kể từ khi thụ lý hồ sơ, trong thời hạn luật định, cơ quan đã thụ lý đơn có trách nhiệm tiến hành xác minh thiệt hại. Kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành việc thương lượng với người bị thiệt hại. Kết quả thương lượng sẽ là căn cứ để ra cơ quan này ra quyết định giải quyết bồi thường. Một điểm cần lưu ý là dù kết quả thương lượng là được hoặc không được sự tán thành của người bị thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường vẫn phải ra quyết định giải quyết bồi thường. Trường hợp người bị thiệt hại đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường và không khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường thì quyết định giải quyết bồi thường sẽ có hiệu lực pháp luật và là căn cứ để cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành các thủ tục cần thiết để chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường thì trong thời hạn luật định, họ phải khởi kiện ra Toà án yêu cầu giải quyết bồi thường. Trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật thì người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường.

Nội dung này đã được quy định chi tiết tại dự thảo Nghị định

7. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án

Luật TNBTCNN quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường nếu hết thời hạn luật định mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định giải quyết bồi thường hoặc khi họ đã nhận được quyết định nhưng không đồng ý (trong thời hạn luật định). Về cơ bản, Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Toà án cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Do xác định quan hệ trách nhiệm bồi thường là quan hệ dân sự đặc thù, vì vậy, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về tố tụng dân sự.

8. Kinh phí bồi thường và thủ tục chi trả

- Về ngân sách bảo đảm kinh phí bồi thường, dự toán kinh phí bồi thường và quyết toán kinh phí bồi thường

Luật TNBTCNN quy định, trường hợp cơ quan trung ương có trách nhiệm bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách trung ương, trường hợp cơ quan địa phương có trách nhiệm bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách địa phương (Điều 52).

Việc lập dự toán kinh phí bồi thường do cơ quan tài chính các cấp phối hợp với cơ quan, đơn vị cùng cấp thực hiện trên cơ sở căn cứ vào thực tế bồi thường của năm trước để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và được phân bổ cho các cơ quan, đơn vị khi có yêu cầu chi trả tiền bồi thường (Điều 53).

Kết thúc năm ngân sách, các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm bồi thường lập quyết toán kinh phí đã chi trả bồi thường, tổng hợp chung trong quyết toán ngân sách hàng năm của cơ quan, đơn vị gửi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước (Điều 55).

- Trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường

Luật TNBTCNN không quy định việc lấy kinh phí bồi thường trực tiếp từ kinh phí riêng của cơ quan có trách nhiệm bồi thường, về nguyên tắc, kinh phí sẽ được lấy từ cơ quan tài chính cùng cấp, trong trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường hưởng kinh phí từ ngân sách trung ương thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị bồi thường lên cơ quan quản lý cấp trên để cơ quan này gửi hồ sơ lên cơ quan tài chính cùng cấp để đề nghị cấp kinh phí.

9. Những vấn đề khác có liên quan

9.1. Quản lý nhà nước về công tác bồi thường

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức cũng như hoạt động của các cơ quan nhà nước, ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính khả thi của Luật mà Luật TNBTCNN đã quy định trách nhiệm quản lý nhà nước đối với công tác bồi thường, theo đó, quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, ngành Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý nhà nước đối với công tác bồi thường trong phạm vi chức năng quản lý của mình.

Điều 11 quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với công tác bồi thường như sau:

Điều 11. Trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường

1. Chính phủ có trách nhiệm sau đây:

a) Thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án;

b) Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng;

c) Ban hành theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

d) Hàng năm, thống kê, tổng kết việc thực hiện bồi thường; báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác bồi thường của Nhà nước khi có yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.

2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, có trách nhiệm báo cáo cho Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của bộ, ngành, địa phương mình.

3. Bộ Tài chính có trách nhiệm xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về việc sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước về bồi thường.

4. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết bồi thường và phối hợp với Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, có trách nhiệm thông báo cho Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của ngành mình.

6. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều này.

Dự thảo Nghị định đã quy định chi tiết nội dung này tại Chương IV.

9.2. Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ

So với các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (NQ 388 và NĐ 47 và các văn bản hướng dẫn thi hành), Luật TNBTCNN đã quy định một cách toàn diện về trách nhiệm hoàn trả, bao gồm: nghĩa vụ hoàn trả và xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ (Điều 56); căn cứ xác định mức hoàn trả (Điều 57); trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả (Điều 58); thẩm quyền ra quyết định hoàn trả (Điều 59); khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả (Điều 60); hiệu lực của quyết định hoàn trả (Điều 61); thực hiện việc hoàn trả (Điều 62); quản lý, sử dụng tiền hoàn trả (Điều 63).

Đối với việc bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, do đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, đã đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng, chính vì vậy, khó có thể tránh khỏi việc gây ra thiệt hại cho người khác. Vì vậy, Luật TNBTCNN đã quy định trong trường hợp gây ra thiệt hại mà do lỗi vô ý thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự không phải chịu trách nhiệm hoàn trả (Khoản 2 Điều 56).

Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả không đồng ý với quyết định hoàn trả thì Luật cũng quy định họ có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (Điều 60). Trường hợp mà người thi hành công vụ không có khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả thì sau 15 ngày, quyết định hoàn trả có hiệu lực pháp luật và cơ quan đã ra quyết định có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định này (Điều 61).

9.3. Về điều khoản thi hành

- Về không áp dụng án phí, lệ phí, các loại phí khác và thuế trong quá trình giải quyết bồi thường

Đây là một trong những nội dung của NQ 388 đã được luật hoá thành Điều 64 của Luật TNBTCNN. Theo quy định tại Điều 64 thì:

+ Khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Nhà nước theo quy định của Luật này, người bị thiệt hại không phải nộp lệ phí, án phí và các loại phí khác.

+ Không thu thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản tiền bồi thường mà người bị thiệt hại được nhận.

- Về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp

Luật đã quy định cụ thể các văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực pháp luật kể từ ngày Luật có hiệu lực, đối với trường hợp yêu cầu bồi thường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thụ lý nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (NQ 388, NĐ 47 và các văn bản hướng dẫn thi hành) thì tiếp tục áp dụng quy định của các văn bản đó để giải quyết. Đối với các trường hợp được bồi thường theo các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (NQ 388 và NĐ 47 và các văn bản hướng dẫn thi hành) mà còn thời hiệu theo quy định của các văn bản này nhưng chưa yêu cầu Nhà nước bồi thường hoặc đã yêu cầu nhưng chưa được thụ lý thì áp dụng các quy định của Luật này để giải quyết.

II. Yêu cầu xây dựng thông tư liên tịch hướng dẫn giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự.

Nghiên cứu các quy định của Luật và dự thảo Nghị định cho thấy, ngoài việc tuân thủ những quy định áp dụng chung về trách nhiệm bồi thường nhà nước, việc giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự còn phải áp dụng các quy định riêng tại Chương IV của Luật. Do đó, cần phải có Thông tư hướng dẫn giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự. Về nội dung hướng dẫn cần bao gồm các vấn đề chủ yếu như sau:

- Xác định các trường hợp được bồi thường;

- Cơ quan giải quyết bồi thường;

- Xác định thiệt hại được bồi thường;

- Trách nhiệm hoàn trả;

- Quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự

Các văn bản liên quan