Những bất ổn về nội dung của Dự thảo Luật Dạy nghề

Thứ Tư 23:57 07-06-2006

Dự thảo Luật Dạy nghề đang được đưa ra lấy ý kiến trước khi trình Quốc hội. Bên cạnh thiện chí của ban soạn thảo khi nỗ lực đưa ra một dự luật có tính chuyên ngành, đáng tiếc lại có những nội dung chưa phù hợp

Trước hết, dự thảo đưa ra một hệ thống trình độ dạy nghề gồm các bậc sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề, (điều 6, chương 1 và chương 2). Cách đặt vấn đề này không những không giải quyết được tính tản mạn và kém hiệu quả về quản lý đào tạo nghề nghiệp mà còn khoét sâu thêm sự cát cứ và giẫm chân.

Chia cắt hoạt động đào tạo nhân lực làm 2 mảng

Trong hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn cho nguồn nhân lực, từ công nhân kỹ thuật cho đến sau tiến sĩ đều là các bậc học mà người kinh qua và tốt nghiệp đúng chất lượng đều có những năng lực nhất định để tiến hành một hoạt động nghề nghiệp. Không ai có thể cho rằng chỉ có các bậc như công nhân kỹ thuật, trung cấp hay cao đẳng nghề mới đào tạo ra nghề, vì nếu nói như vậy, các cử nhân, kỹ sư, bác sĩ hay thạc sĩ, tiến sĩ sẽ được xem là không có năng lực thực hiện một nghề nghiệp nào đó để đóng góp vào hoạt động xã hội, nghĩa là họ không có nghề. Do đó, việc đưa ra các khái niệm về sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề thực chất đã chia cắt hoạt động đào tạo chuyên môn nguồn nhân lực ra làm 2 mảnh. Một mảnh thực hiện việc quản lý đào tạo nghề ở 3 cấp này giao cho Bộ LĐ-TB-XH quản. Còn những bậc học cung ứng những tay nghề cao hơn như đại học, sau đại học thì để cho Bộ GD- ĐT.

Cũng tại điều 6, chương 1 và mục 2, chương 5, Dự thảo Luật Dạy nghề đưa ra một hệ thống cơ sở gồm: Lớp dạy nghề, trung tâm dạy nghề, trường trung cấp, trường cao đẳng. Việc đưa lớp dạy nghề thành một đơn vị hành chính khiến mọi cơ sở sản xuất, doanh nghiệp muốn tổ chức đào tạo ngắn hạn cho công nhân của chính họ đều phải xin phép và chúng ta sẽ có một hệ thống thủ tục xin-cho không những không tinh giản mà còn phình ra kinh khủng hơn. Đó là chưa nói đến việc những quy định như vậy sẽ gây nhiều ngộ nhận về pháp nhân của lớp dạy nghề bởi bên trong các cơ sở khác như trung tâm, trường trung cấp, trường cao đẳng cũng có đơn vị lớp.

Hợp đồng học nghề hay là sự phức tạp hóa

Tại điều 36, chương 4 quy định học viên đi học tại các cơ sở dạy nghề phải ký hợp đồng học nghề. Chúng tôi đồng ý rằng trong xã hội có những nghề cha truyền con nối, nghề có tính gia đình mà việc truyền nghề cho một cá nhân bất kỳ phải có sự bảo đảm nhất định về quyền lợi hay nghĩa vụ đối với người chủ. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp cấp tiền hoặc cho thời gian để người lao động (NLĐ) đang làm việc được đi học nghề, họ có quyền đòi hỏi NLĐ phải có nghĩa vụ trở lại làm việc một khoảng thời gian thỏa thuận sau khi kết thúc lớp. Trong những trường hợp như vậy, việc học nghề là một khế ước xã hội và sẽ cần đến hợp đồng. Nhưng nếu vì thế mà bắt buộc ngay cả những học viên tự do, học ở các lớp dạy nghề và trung tâm dạy nghề cũng phải ký hợp đồng học nghề thì là cả một sự phức tạp. Lâu nay, quy chế học vụ là những quy định mà người học khi đăng ký vào học các cơ sở đào tạo luôn được hướng dẫn và cam kết thực hiện. Đấy là một loại hình của thỏa thuận xã hội thay cho những ràng buộc giấy tờ quá mức cần thiết. Việc đưa ra quy định hợp đồng học tập rõ ràng là một quan điểm không thể hiểu được trong thời đại mà chúng ta đang nỗ lực tinh giản thủ tục hành chính.

Một trong các vấn đề được quan tâm nhiều nhất là kiểm định chất lượng dạy nghề. Thông thường, việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo phải là một tổng thể gồm 3 bước: 1) Xây dựng chuẩn chất lượng đào tạo gồm hệ thống các đặc trưng có tính mẫu của một đầu ra mẫu được xây dựng trên yêu cầu của xã hội về những tiêu chí phải có của nhân lực mà họ sẽ sử dụng. Từ chuẩn mẫu của một học viên, chúng ta xây dựng chuẩn mẫu cho một cơ sở đào tạo, một hệ thống đào tạo nghề cả nước. Trong đó, lưu ý tiềm năng rút ngắn về chuẩn so với cơ sở hay hệ thống đào tạo nghề đang là tối ưu của thế giới; 2) Từ chuẩn về chất lượng của một học viên, một cơ sở, cả hệ thống, chúng ta tiến hành xây dựng chuẩn về điều kiện hoạt động và kiểm soát quy trình hoạt động để bảo đảm rằng hệ thống, cơ sở chắc chắn sẽ tạo được những sản phẩm (học viên) đạt chuẩn chất lượng; 3) Xây dựng hệ thống đánh giá ngoại quan và nội quan để bảo đảm việc thực hiện chuẩn.

Từ điều 89 đến 96 của Dự thảo Luật Dạy nghề chỉ đưa ra những chuẩn về điều kiện hoạt động (tức một bộ phận của bước thứ hai), còn ngoài ra chỉ nhấn mạnh đến trách nhiệm và chủ thể thực hiện kiểm định. Việc xây dựng một hệ thống kiểm định không bài bản và không bắt đầu từ gốc không thể tạo ra một sản phẩm tốt.

Quyền lựa chọn học nghề, ở đâu?

Vấn đề thông tin về tình hình và chất lượng đào tạo cũng như tình hình nhân dụng của lực lượng đã qua đào tạo nghề không được nhắc đến trong dự thảo, mặc dù nó là một bộ phận rất quan trọng để bảo đảm rằng người dân được thông tin cân xứng hầu có thể đưa ra những lựa chọn đúng trong học nghề. Nghĩa là không có một dòng nào để bảo đảm quyền lựa chọn học nghề của nhân dân.

Từ chương 5 đến các chương sau, nhất là từ điều 45 đến 57, Dự thảo Luật Dạy nghề lặp đi, lặp lại một số nội dung và còn nhặt nhạnh nhiều nội dung từ các luật khác để đưa vào một cách thiếu hợp lý như quy định về hiệu trưởng, hội đồng trường, hội đồng tư vấn...

Hai hệ quả

VIệc đưa ra các khái niệm về sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề tạo ra ít nhất 2 hệ quả: Một là, những trường cao đẳng lâu nay (có đào tạo các bậc chuyên môn thấp hơn) do Bộ GD-ĐT quản lý sẽ phải tiến hành xin phép Bộ LĐ-TB-XH để được đào tạo nghề, cũng như phải xin thông qua chương trình đào tạo, mở ngành, xin chỉ tiêu, đăng ký chuyên môn, xin mua phôi bằng và xin chuẩn hóa giáo viên dạy nghề... Cơ sở đào tạo như thế sẽ có 2 ông quản lý ngành cấp Nhà nước mà chỉ chuyện xin và cho đã chiếm hết thời gian làm việc. Hai là, các bậc học mà những trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng hiện đang do Bộ GD-ĐT quản lý đào tạo ra nguồn nhân lực không được xem là biết nghề, và những bằng cấp như trung học chuyên nghiệp, cao đẳng xưa và nay vốn đã không được xem là những văn bằng có tính học thuật, nay sẽ được xem là không phải văn bằng nghề và những hệ đào tạo ở các trường ấy không thuộc diện quản lý của luật.

Nên xây dựng theo hướng Luật khuyến khích học nghề

Nên xây dựng luật theo hướng khuyến khích học nghề gồm các quy định thúc đẩy, phân luồng học sinh phổ thông vào học nghề

Chúng tôi có thể chỉ ra thêm khá nhiều vấn đề tương tự để minh chứng rằng Dự thảo Luật Dạy nghề còn lâu mới giải quyết được hiện trạng bất cập về quy mô, cơ cấu, mạng lưới, trình độ của hoạt động dạy nghề lâu nay và tính tản mạn, hiệu lực chưa cao của các văn bản quy định hiện hành. Nhưng vấn đề mà chúng tôi quan tâm nhất là có nên ban hành một Luật Dạy nghề với những nội dung như thế không? Theo chúng tôi, câu trả lời là có thể đưa ra một Luật Dạy nghề nhưng với những nội dung không phải thế.

Dự thảo Luật Dạy nghề giao cho cơ quan quản lý cấp Nhà nước rất nhiều quyền hạn, từ xây dựng chương trình khung, cấp phép thành lập cơ sở, duyệt chỉ tiêu, cấp mã ngành, định chuẩn giáo viên, cơ sở, xét nâng ngạch giáo viên, tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo, bán phôi bằng... Cơ sở dạy nghề có một quyền là chấp hành theo các quy định của luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý ngành. Trong tình hình chúng ta đang chủ trương giao quyền tự chủ mạnh mẽ cho các cơ sở đào tạo, tình hình trên chỉ làm nặng nề thêm cơ chế xin-cho và công tác đào tạo đã trì trệ e rằng sẽ trì trệ hơn.

Dự thảo cũng chưa nhắc đến các bậc đào tạo cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện hành sẽ đào tạo ra sản phẩm gì. Nếu các hệ trên phải chuyển thành trung học nghề, cao đẳng nghề để chỉ có một hệ thống đào tạo nghề bậc thấp duy nhất do Bộ LĐ-TB-XH quản lý về chuyên môn, thì liệu tính liên thông của nó lên các bậc nghề trên do Bộ GD-ĐT quản lý được bảo đảm như thế nào? Cho dù những điều này có được giải quyết ổn, hệ thống đào tạo kiến thức và chuyên môn cho nguồn nhân lực quốc gia không còn tính thống nhất, chiến lược phát triển ngành và xây dựng nguồn nhân lực có tính cạnh tranh trong thế kỷ 21 khó mà đạt hiệu quả.

Đề nghị của chúng tôi là nếu chương trình làm luật này đã được đưa vào kế hoạch lập pháp 2006, nên chăng xây dựng luật theo hướng Luật Khuyến khích học nghề (thậm chí có thể giữ nguyên tên gọi Luật Dạy nghề) với ngân sách đi kèm gồm các quy định thúc đẩy, góp phần phân luồng học sinh phổ thông vào học nghề, hỗ trợ củng cố chất lượng và điều kiện bảo đảm chất lượng cho các cơ sở dạy nghề. Nếu điều chỉnh như thế, chúng ta sẽ tránh được việc chồng chéo về quản lý đào tạo nguồn nhân lực, trong khi vẫn bảo đảm được chức năng quản lý ngành của Bộ LĐ-TB-XH là chăm lo đến hoạt động dạy nghề và các công tác liên quan đến người lao động.

Ở các nước, quản lý dạy nghề không giao cho Bộ LĐ-TB-XH

Vấn đề đáng lưu ý khác là không phải nơi nào quản lý mảng dạy nghề bậc thấp, mà là việc quản ấy có hợp lý không? Khi một cơ quan quản một chức năng đã hợp lý nhưng không làm được việc, thì phải xem xét trách nhiệm của người đứng đầu chứ không vì thế mà chuyển chức năng ấy sang cho cơ quan khác. Bộ Lao động Hoa Kỳ không ôm hoạt động dạy nghề. Vai trò chính trong việc cung ứng dịch vụ này là các trung tâm đào tạo tư nhân và các trường cao đẳng chuyên nghiệp mà trong đó, trường do nhà nước thành lập có tỉ lệ rất nhỏ. Còn Luật Dạy nghề của Trung Quốc, Hàn Quốc không giao trách nhiệm quản trị đào tạo nghề cho Bộ Lao động, chỉ quy định những hoạt động hỗ trợ mà cơ quan này phải làm, còn công tác quản lý đào tạo chuyên môn cho nguồn nhân lực nói chung thì chỉ có một đầu mối.

TS LÊ VINH DANH

 

Các văn bản liên quan