Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: những bất cập và hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự phần 1
NHẦM
LẪN TRONG CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG: NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƯỚNG SỬA ĐỔI BỘ LUẬT DÂN SỰ
(Phần 1)
TS. ĐỖ NGỌC ĐẠI – Đại học Luật TPHCM
Dẫn nhập
Hợp
đồng là kết quả của sự ưng thuận giữa các bên. Trong thực tế, không hiếm trường
hợp sự ưng thuận này có «khiếm khuyết» và nhìn chung, pháp luật hợp đồng các
nước đều dự liệu ba trường hợp «khiếm khuyết» cho phép tuyên bố hợp đồng vô
hiệu. Đó là nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa trong quá trình giao kết hợp
đồng. Ở Việt Nam, vấn đề xử lý lừa dối hay đe dọa trong giao
kết hợp đồng đã tồn tại khá sớm. Một số quy định trong Bộ luật Hồng Đức (thế kỷ
15) đã tiềm ẩn những quy định về hai «khiếm khuyết» này. Chẳng hạn, về lừa
dối, theo Điều 187, Bộ luật Hồng Đức, “trong các chợ tại kinh thành và
thôn quê, những người mua bán không theo đúng cân, thước, thăng, đấu của Nhà
nước mà làm riêng của mình để mua bán thì xử tội biếm hoặc đồ”.
Tương tự, theo điều 190 «người dùng thăng, đấu, cân, thước để mua bán lấy lợi
riêng thì tội cũng như tội ăn trộm». Cũng tương tự, Điều 191 phạt “những người
làm đồ khí dụng giả dối và vải lụa ngắn hẹp để đem bán” 50 roi, giáng hạ một
bậc, và bắt sung công hàng hóa. Vềđe dọa, theo Điều 198, Bộ luật Hồng
Đức, “những người từ chối không tiêu tiền đồng bị sứt mẻ hoặc đòi giá hàng quá
cao mới bán, hay là đóng cửa hàng không bán để bán giấu ở trong nhà, thì đều
phải tội hạ bậc và bắt diễu đi trước công chúng 3 ngày. Những hàng hóa nói trên
đều bị tịch thu sung công. Những người cậy quyền mua hàng ức hiếp, thì cũng bị
tội như thế”. Tương tự, theo Điều 355, Bộ luật Hồng Đức, “người nào ức hiếp để
mua ruộng đất của người khác thì phải biếm hai tư và cho lấy lại tiền
mua”. Tuy nhiên, trong cổ luật Việt Nam, việc xử lý khiếm khuyết trên mang
nhiều màu sắc hình sự hơn dân sự so với pháp luật đương đại.
Các
quy định về “nhầm lẫn dường như lại không thấy thể hiện trong Bộ luật
Hồng Đức như lừa dối hay đe dọa mà chúng ta vừa nêu. Rất khó kết luận từ thời
điểm nào chế định “nhầm lẫn” bắt đầu tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt
Nam1. Từ những năm 80 của thế kỷ thứ 20 đến nay, chúng ta có một số văn bản ảnh
hưởng ít nhiều tới lĩnh vực hợp đồng. Đó là Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (HĐDS
– hết hiệu lực năm 1996), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (HĐKT – hết hiệu lực
năm 2006), Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 (hết hiệu lực năm 2006), Luật Thương
mại (LTM) năm 1997 (hết hiệu lực năm 2006), LTM năm 2005 và BLDS năm 2005.
Trong các văn bản này chỉ có Pháp lệnh HĐDS và BLDS có quy định về nhầm lẫn. Cụ
thể, theo khoản 3, Điều 15, Pháp lệnh HĐDS, hợp đồng vô hiệu “khi một bên hợp
đồng bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng” và theo khoản 1, Điều 141,
BLDS năm 1995, “khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà
xác lập giao dịch, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch
đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn, thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu”. BLDS năm 2005
cũng có quy định về nhầm lẫn tại Điều 131 mà chúng ta sẽ phân tích kỹ ở phần
tiếp theo. Pháp lệnh HĐKT, LTM năm 1997 và LTM năm 2005 đều có quy định về hợp
đồng nhưng không có quy định về nhầm lẫn. Do đó, khi vấn đề nhầm lẫn trong giao
kết hợp đồng được đặt ra, Tòa án thường “mượn” các quy định của Pháp lệnh HĐDS
hay của BLDS để giải quyết. Ví dụ, liên quan đến một tranh chấp trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại, Tòa án đã áp dụng Pháp lệnh HĐDS với nội dung sau đây:
“Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Trần Ngọc Cứ không thừa nhận là
mình có sửa số từ 342m2 đất được cấp để ký hợp đồng liên doanh xây dựng nhà với
Công ty xây dựng kinh doanh nhà (nay là Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn) nhưng
theo hồ sơ thể hiện về phía Lữ đoàn 596 xác định Lữ đoàn chỉ có cấp 342m2 đất
cho ông Cứ theo quyết định số 02 ngày 10/11/1986 chứ không đến 942m2 đất như
ông Cứ khai (Lữ đoàn không còn bản chính của quyết định số 02 nhưng về sổ sách
theo dõi thì Lữ đoàn vẫn còn ghi sổ lưu, việc này đã được Bộ Tư lệnh Thông tin
giải quyết, Bộ Tư lệnh Thông tin có ra quyết định số 206g3/QĐ ngày 18/6/1997
thu hồi lại diện tích 666m2 đất (Bút lục 104 và 74), ông Cứ không có khiếu nại
lại quyết định trên, quyết định trên đã có hiệu lực pháp luật, cấp sơ thẩm cho
rằng chưa có căn cứ để xác định ông Cứ có hành vi lừa dối khi ký kết hợp đồng
bằng việc sửa chữa lại nội dung của quyết định số 02 nhưng với phân tích như
trên thì có căn cứ để xác định ông Cứ có lỗi trong việc làm cho Công ty xây
dựng và kinh doanh nhà nhầm lẫn về quyền sử dụng đất đối với khu đất mà ông Cứ
đã thỏa thuận hợp tác – xây dựng, dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu, không thực hiện
được là do lỗi của ông Cứ, nên ông Cứ phải chịu trách nhiệm bồi hoàn khoản
thiệt hại gián tiếp (vốn bị ứ đọng) cho Công ty xây dựng và kinh doanh nhà (nay
là Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn theo quy định tại khoản 4 điều 16 Pháp lệnh
HĐDS)”2. Tương tự, liên quan đến nhầm lẫn sản phẩm giữa hai công ty, Tòa án đã
sử dụng BLDS năm 1995 để giải quyết. Cụ thể, theo Tòa án, “xét các bên thỏa
thuận mua bán sản phẩm để dùng cho sản phẩm da tổng hợp PO là vật liệu không có
thực, căn cứ vào điều 141 BLDS 1995 thì hợp đồng số 241 và 243 bị vô hiệu do
nhầm lẫn. Do đó, hội đồng xét xử vô hiệu hợp đồng 241 và 243 do việc các bên
giao dịch mua bán Myflame 84527E để dùng cho vật liệu PO là loại vật liệu không
có thật”3 .
BLDS
2005 đã có sự sửa đổi so với BLDS năm 1995 và Pháp lệnh HĐDS về nhầm lẫn. Cụ
thể, Điều 131 BLDS năm 2005 về “giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn” quy
định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm
lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một
bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được
giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”. Trong quá trình vận
dụng chế định này chúng ta thấy thể hiện một số bất cập về nguyên nhân gây nhầm
lẫn (I), đối tượng của nhầm lẫn (II), xử lý vấn đề nhầm lẫn (III) cũng như về
khái niệm nhầm lẫn (IV).
1. Về nguyên nhân của sự nhầm lẫn
1.1. Hai nguyên nhân
BLDS
đưa ra hai nguyên nhân của sự nhầm lẫn làm cho hợp đồng vô hiệu.
Theo
đoạn 1 của Điều 131, nhầm lẫn của một bên là do «lỗi vô ý» của bên kia. Trong
vụ việc liên quan đến ông Cứ ở trên, chúng ta có thể cho rằng bên Công ty cổ
phần địa ốc Sài Gòn đã có nhầm lẫn và nhầm lẫn này là do phía ông Cứ nhưng đó
là «lỗi vô ý». Bởi lẽ, ông Cứ không «cố ý» làm cho Công ty nhầm lẫn; ông không
cố ý thay đổi nội dung hợp đồng mà chỉ «vô ý» làm cho Công ty hiểu nhầm. Đoạn 2
của điều luật trên còn đề cập đến nhầm lẫn của một bên do «lỗi cố ý» của bên
kia. Đối với trường hợp này chúng ta xử lý như lừa dối. Vụ việc sau đây dường
như là trường hợp một bên nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên kia4: Công ty Vĩnh Ký
đồng ý chuyển nhượng cho Công ty Trang Anh 42.175 m2 đất trong đó có 10.000 m2
là đất xây dựng nhà máy và 32.175 m2 là đất nông nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 1996
Công ty Vĩnh Ký biết là đất không còn được sử dụng vào mục đích xây dựng nhà
máy nhưng lại không thông báo cho Công ty Trang Anh. Ở đây, bên mua đã hiểu
không đúng về đối tượng của hợp đồng và việc này dường như do sự cố ý của bên
bán là không nói rõ thông tin của mình về tài sản cho bên mua. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, theo
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, “bên bán biết rõ 10.000 m2 đất
đã thay đổi quy hoạch từ năm 1996, nhưng khi bán không thông báo cụ thể cho bên
mua biết là có lỗi”. Cuối cùng, theo Hội đồng thẩm phán, “từ năm 1996 Công ty
Vĩnh Ký đã biết 10.000 m2 đất không còn sử dụng được vào mục đích xây dựng nhà
máy, nhưng khi ký hợp đồng đã gian dối không thông báo rõ tình trạng đất cho
Công ty Trang Anh”5.
Như
vậy, BLDS năm 2005 dự liệu hai trường hợp nhầm lẫn của một bên: nhầm lẫn do lỗi
vô ý hay cố ý của bên kia và thực tế cho thấy hai loại nhầm lẫn này hoàn toàn
có thể tồn tại. Tuy nhiên, ngoài hai nguyên nhân trên, BLDS không có đưa ra một
nguyên nhân nào khác nữa và đây chính là một bất cập.
1.2. Thiếu nguyên nhân
Trong
thực tế có thể xảy ra một bên nhầm lẫn mà bên kia hoàn toàn “không có lỗi”; bên
kia không có lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Bởi, cả hai cùng có nhầm lẫn và không thể
suy luận rằng một ai trong hai bên có lỗi. Ví dụ, bên bán nghĩ rằng tài sản của
mình bán là đồ cổ của thế kỷ thứ 15 và người mua cũng nghĩ là như vậy. Một thời
gian sau, cả hai bên được biết rằng đây là đồ cổ của thế kỷ thứ 12. Như vậy,
bên bán có nhầm lẫn, bên mua cũng vậy và nhầm lẫn của bên bán hoàn toàn không
có “lỗi” của bên mua. Những ví dụ loại này không hiếm trong thực tế.
Ví dụ,
ngày 15/11/1998, anh Mạnh mua của anh Thắng một chiếc xe Dream với giá là 28
triệu đồng. Ngày 8/12/1998, khi vợ anh Mạnh sử dụng thì Công an kiểm tra giấy
tờ và phát hiện xe máy này là tang vật của một vụ án đang điều tra. Theo Tòa
án, “thực tế chiếc xe Dream II anh Thắng đã bán cho anh Mạnh không phải là của
anh mà là tang vật của vụ cướp tài sản của công dân nên hợp đồng mua bán xe
giữa anh Thắng với anh Mạnh là vô hiệu. Buộc anh Thắng phải có trách nhiệm trả
anh Mạnh số tiền 28 triệu đồng”. Cũng theo Tòa án, “việc anh Thắng mua chiếc xe
máy Dream II của anh Quang cũng là anh bị nhầm lẫn và không biết chiếc xe này
là tang vật của vụ án hình sự”. Từ đó, Tòa án đã căn cứ vào “điều 136 và
141-146 BLDS (năm 1995)” để “xác định giao dịch dân sự giữa anh Thắng và anh
Mạnh là vô hiệu (…); chấp nhận yêu cầu của anh Mạnh đòi anh Thắng số tiền 28
triệu đồng”6. Đối với Tòa án, hợp đồng vô hiệu vì có nhầm lẫn. Bởi Tòa án đã
viện dẫn Điều 141 BLDS năm 1995 trong khi đó điều này quy định “giao dịch dân
sự vô hiệu do bị nhầm lẫn”. Ở đây, bên mua là anh Mạnh có nhầm lẫn, khi mua anh
Mạnh không thể nghĩ rằng đây là tang vật của một vụ án hình sự, nhưng thực tế
đây lại là tang vật của một vụ cướp. Vẫn theo Tòa án, bản thân anh Thắng “cũng”
“bị nhầm lẫn”.
Trong
vụ việc vừa nêu, hợp đồng bị vô hiệu do nhầm lẫn là hợp đồng giữa anh Mạnh và
anh Thắng; cả hai cùng nhầm lẫn. Do vậy, không thể coi ai trong hai người có
lỗi cả. Tòa án đã vận dụng BLDS năm 1995 và cho rằng có nhầm lẫn làm cho hợp
đồng vô hiệu. Cách giải quyết như vậy là hoàn toàn thuyết phục. Bởi, BLDS năm
1995 (và Pháp lệnh HĐDS) không phân biệt nguyên nhân của nhầm lẫn như BLDS năm
2005. Do đó, mọi nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn đều thuộc phạm vi điều
chỉnh của BLDS năm 1995. BLDS năm 2005 thay đổi so với BLDS năm 1995 và chỉ đề
cập đến 02 nguyên nhân, do đó cách giải quyết của BLDS năm 2005 là chưa toàn
diện, không đầy đủ. Nếu vụ việc tương tự như trên xảy ra và phải áp dụng BLDS
năm 2005 thì chúng ta thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết.
1.3. Hướng sửa đổi BLDS
Thực
chất, việc quy định như BLDS năm 2005 có vẻ thuyết phục khi phân biệt lỗi cố ý
hay lỗi vô ý nhưng thực tế cách quy định này không đầy đủ, thiếu toàn diện như
đã phân tích. Chúng ta nên sửa đổi BLDS theo hướng là không nên giới hạn các
nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn ở lỗi cố ý hay vô ý của bên kia. Vậy hướng
sửa đổi BLDS nên tiến hành như thế nào?
Cách sửa đổi thứ nhất là chúng ta nên quay lại Pháp lệnh HĐDS và BLDS năm 1995 bằng cách quy
định cho phép yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn mà không quy định
“nguyên nhân” của sự nhầm lẫn: tất cả các nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn
đều có thể làm cho hợp đồng vô hiệu. Nếu theo hướng này, chúng ta có thể thay
đoạn “khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn (…) mà xác lập giao dịch
thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch
đó…” thành “khi một bên nhầm lẫn (…) mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn
có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó…”. Với cách sửa đổi
này chúng ta không phân biệt nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn; quy định này
bao gồm nhầm lẫn do lỗi vô ý, lỗi cố ý của một bên hay cả trường hợp hai bên
cùng có lỗi. Điều đó có nghĩa là ngoài hai nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn
như hiện nay chúng ta đã thêm các nguyên nhân khác. Về đoạn 2 của Điều 131,
theo đó “trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn (…) thì
được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”, chúng ta nên giữ
để cho phép áp dụng các quy định về lừa dối đối với nhầm lẫn do lỗi cố ý của
một bên.
Lưu ý
là Cộng hòa Pháp đang sửa đổi BLDS về phần hợp đồng và hiện nay họ đã có một dự
thảo sửa đổi. Ở đây họ cũng không quan tâm đến nguyên nhân của sự nhầm lẫn. Do
vậy, chúng ta hoàn toàn có thể theo hướng này.
Cách sửa đổi thứ hai là, ngoài hai nguyên nhân làm cho một bên nhầm lẫn như BLDS hiện nay, chúng
ta bổ sung thêm một nguyên nhân nữa. Đó là một bên nhầm lẫn về một vấn đề mà
bên kia cũng bị nhầm lẫn: cả hai cùng nhầm lẫn. Với hướng đi này thì sau đoạn 1
của Điều 131, theo đó, “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn …”
chúng ta có thể thêm một đoạn nữa là các quy định trên cũng được áp dụng đối
với trường hợp “cả hai bên cùng nhầm lẫn”.
Lưu ý
là hướng xử lý như trên đã được thể hiện trong Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp
đồng. Ở đây, Điều 4:103 đã cho phép một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
(nếu các điều kiện khác hội đủ) khi: (i) nhầm lẫn được gây ra do thông tin của
bên kia cung cấp, (ii) bên kia biết hoặc phải biết có nhầm lẫn nhưng đã để cho
nạn nhân nhầm lẫn trái với nguyên tắc thiện chí, (iii) hoặc bên kia cũng có
cùng nhầm lẫn. Theo các nhà bình luận thì “tất cả các hệ thống luật đều cho
phép tuyên bố vô hiệu hợp đồng đối với mỗi bên khi các bên giao kết hợp đồng
trên cơ sở của việc nhầm lẫn quan trọng chung, ví dụ như ở Áo, ở Ý”7. Bộ nguyên
tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế cũng theo hướng này tại Điều 3.5.
Cụ thể, theo điểm a, khoản 1, một bên được quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do nhầm lẫn (nếu các điều kiện khác hội đủ) “khi bên kia cũng có cùng
nhầm lẫn hoặc là nguyên nhân của sự nhầm lẫn hoặc đã biết hay phải biết về
tình trạng nhầm lẫn nhưng đã để nạn nhân nhầm lẫn trái với nguyên tắc thiện chí
trong lĩnh vực thương mại”.
Có thể
có ý kiến cho rằng, không cần sửa đổi BLDS mà chỉ cần “mở rộng” khái niệm nhầm
lẫn “do lỗi vô ý” đối với trường hợp cả hai cùng nhầm lẫn, nên coi trường hợp
cả hai cùng nhầm lẫn là một trường một bên nhầm lẫn “do lỗi vô ý” của bên
kia. Hướng đi này dường như không ổn vì việc xác định một bên có lỗi kéo
theo hậu quả liên quan đến bồi thường thiệt hại. Do vậy, với cách “giải thích
thông thoáng” khái niệm “lỗi” chúng ta có thể dẫn đến hậu quả là buộc một bên
ngay tình phải chịu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, để bảo vệ bên
ngay tình nếu vẫn xác định có “lỗi” để cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu,
chúng ta có thể quyết định bên “có lỗi” đó không phải bồi thường. Tuy nhiên,
với cách xử lý này, chúng ta lại mâu thuẫn với quy định tại Điều 137, BLDS về
“hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” theo đó “bên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường”.
2. Về đối tượng của sự nhầm lẫn
2.1. Nội dung hợp đồng
Trong
thực tế, không hiếm trường hợp các bên nhầm lẫn nội dung hợp đồng; một bên yêu
cầu sửa đổi phần nhầm lẫn và được bên kia cũng như Tòa án thừa nhận.
Ví dụ,
vào năm 1997, vợ chồng bà Sáu, ông Tuấn có lập hợp đồng trao đổi nhà, đất với
vợ chồng ông Hòa, bà Phương. Qua đó, ông Tuấn, bà Sáu giao phần đất ngang 05m;
dài 20m cho vợ chồng ông Hòa bà Phương tọa lạc tại khóm 9, phường 7, thị xã Trà
Vinh, nay là số 95 Nguyễn Thị Minh Khai, khóm 9, phường 7, thị xã Trà Vinh.
Phía vợ chồng ông Hòa, bà Phương phải giao cho vợ chồng bà Sáu căn nhà 29/11
Phạm Thái Bường, phường 3, thị xã Trà Vinh. Theo yêu cầu của bà Sáu, vợ chồng
ông Hòa, bà Phương làm thủ tục mua bán căn nhà trên cho con bà Sáu là Kiều Quốc
Vương đứng tên, để thuận lợi cho việc hợp thức hóa. Nhưng khi đến phường làm
thủ tục thì mới phát hiện trong giấy tờ chỉ ghi địa chỉ nhà là đường Độc Lập,
khóm 2, phường 3. Bà Sáu cũng đã yêu cầu ký lại hợp đồng mới cho phù hợp với
địa chỉ nhà đất trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà nhưng vợ chồng bà
Phương, ông Hòa nghi ngờ có sự gian dối nên không đồng ý ký. Từ đó, bà Sáu yêu
cầu hủy hợp đồng. Về vụ việc này, theo Tòa án, “xét thấy tại phiên tòa hôm nay
anh Vương được bà Sáu và ông Tuấn ủy quyền tự nguyện rút lại đơn kháng cáo
không yêu cầu hủy hợp đồng trao đổi nhà đất, chỉ yêu cầu ông Hòa và bà Phương
lập lại hợp đồng trao đổi nhà, đất lập vào năm 1997. Yêu cầu của anh Vương được
ông Hòa và bà Phương chấp nhận lập lại hợp đồng mới cho anh Vương theo đúng địa
chỉ căn nhà số 29/11, Phạm Thái Bường, phường 3, thị xã Trà Vinh. Xét thấy việc
thỏa thuận giữa anh Vương với ông Hòa, bà Phương là sự tự nguyện đúng pháp luật
nghĩ nên công nhận”8.
Ba văn
bản về hợp đồng có quy định về nhầm lẫn là Pháp lệnh HĐDS, BLDS năm 1995 và
BLDS năm 2005 đều chỉ đề cập tới nhầm lẫn về “nội dung” của hợp đồng. Cụ thể,
theo khoản 3, Điều 15, Pháp lệnh HĐDS, hợp đồng vô hiệu “khi một bên hợp đồng
bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng” và theo khoản 1, Điều 141, BLDS
năm 1995, “khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập
giao dịch, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó; nếu
bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn, thì bên bị nhầm
lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu”. BLDS năm 2005 có quy
định về nhầm lẫn tại Điều 131 và ở đây chúng ta cũng chỉ thấy đề cập tới nhầm
lẫn “về nội dung” của hợp đồng. Một vấn đề đặt ra là khi có sự nhầm lẫn về chủ thể
của hợp đồng thì phải giải quyết như thế nào?
2.2. Chủ thể của hợp đồng
Trong
thực tế, hoàn toàn có thể xảy ra nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp
đồng. Vụ việc sau đây dường như là một ví dụ9.
Ngày
21/4/2006, ông Trường và bà Thu có lập hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập
Công ty cổ phần đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường với ngành nghề kinh doanh gồm mua
bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ, y ngoại tổng quát, đào tạo
nghề. Ông Trường là Tổng Giám đốc. Lợi nhuận công ty sau khi trừ chi phí hoạt
động chia đều 50% cho ông Trường và bà Thu. Công ty đã đi vào hoạt động được
khoảng 2 tháng thì hai bên bắt đầu có mâu thuẫn. Ông Trường khởi kiện yêu cầu
bà Thu phải bồi thường cho ông các khoản thiệt hại và khoản tiền mà ông đã đầu
tư vào công ty. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp, Tòa án đã tuyên hợp đồng
hợp tác giữa ông Trường và bà Thu là vô hiệu do nhầm lẫn (Tòa án đã viện dẫn
Điều 131, BLDS năm 2005). Cơ sở để Tòa án cho rằng có sự nhầm lẫn trong hợp
đồng thỏa thuận hợp tác giữa ông Trường và bà Thu là “Bà Thu không phải là bác
sỹ nên bị nhầm lẫn y ngoại tổng quát với phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ ngay từ
khi xác lập hợp đồng thỏa thuận hợp tác”. Ở đây, Tòa án cho rằng sự nhầm lẫn
xuất phát từ nhận thức của bà Thu bởi bà đã nhầm “y ngoại tổng quát” là “phẫu
thuật tạo hình thẩm mỹ”. Điều đó có nghĩa là đối với bà Thu, có sự khác nhau
giữa nhận thức của bà Thu về chuyên môn của ông Trường và “sự thật” về chuyên
môn của ông Trường. Trong nhận thức của mình, bà Thu nghĩ rằng bằng cấp chuyên
môn của ông Trường là y ngoại tổng quát, tức là ông Trường có chuyên môn về
phẫu thuật thẩm mỹ nên mới hợp tác kinh doanh. Ông Trường có chuyên môn về y
ngoại tổng quát nhưng ông lại không có chuyên môn về phẫu thuật thẩm mỹ. Như
vậy, nếu có nhầm lẫn như Tòa án đã nhận định thì đây là nhầm lẫn về chủ thể
giao kết hợp đồng.
BLDS
chỉ đề cập đến nhầm lẫn về «nội dung» của hợp đồng còn vụ việc
vừa rồi dường như có nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù vậy, Tòa án vẫn cho tuyên bố
hợp đồng vô hiệu. Xét về góc độ văn bản thì Tòa án đã thiếu cơ sở pháp lý.
Trong
vụ việc sau đây, dường như hợp đồng đã được giao kết và một bên đã nhầm lẫn về
chủ thể của hợp đồng.
Cụ
thể, bà Lê Thị Hoà và ông Hoàng Hiếu Dân đã ly hôn ngày 11/5/2001, nhưng tại
giấy vay ngày 18/1/2003 do ông Hoàng Hiếu Dân lập, xác định ông có vay bà Oanh
30 lượng vàng; phía dưới dòng chữ “Người vay” ông Dân ký tên và ghi rõ họ tên,
phía bên phải giấy này có chữ ký bà Lê Thị Hòa.
Theo
Tòa án, “không đủ cơ sở xác định bà Lê Thị Hòa là người vay (…). Tuy nhiên, bà
Oanh nêu bà chỉ đồng ý cho hai vợ chồng vay chứ không cho ông Dân vay, vì ông
Hoàng Hiếu Dân và bà Lê Thị Hòa muốn giấu tình trạng hôn nhân giữa hai người
nên bà Hòa dù không vay nợ nhưng vẫn ký thì bà cũng có một phần lỗi làm bà Oanh
nhầm tưởng mà cho vay, nên đây là giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn và
phải tuyên bố giao dịch này vô hiệu, bà Lê Thị Hòa phải có một phần trách
nhiệm, cụ thể là bà Lê Thị Hòa phải trả ½ số nợ là phù hợp”. Ở đây, Tòa án đã
áp dụng “Điều 131; Điều 137 BLDS”10 năm 2005, tức các quy định về nhầm lẫn
trong BLDS.
Trong
vụ việc vừa nêu, Tòa án cho rằng có nhầm lẫn và tuyên bố vô hiệu hợp đồng,
nhưng với thông tin của bản án thì khó có thể khẳng định có nhầm lẫn về “nội
dung” của hợp đồng. Nếu có nhầm lẫn ở đây thì đó dường như là nhầm lẫn về “chủ
thể” của hợp đồng.
2.3. Sửa đổi BLDS
Phần
trình bày trên cho thấy, văn bản chỉ giới hạn ở nhầm lẫn về nội dung của hợp
đồng trong khi đó thực tế có thể tồn tại nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù văn bản
chỉ giới hạn ở nhầm lẫn về nội dung, thực tiễn xét xử vẫn cho phép tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể. Tòa án dường như đã «vượt rào», thiếu cơ
sở «văn bản» cho quyết định của mình. Để thực tiễn có «cơ sở pháp lý» cho những
phán quyết của mình về nhầm lẫn đối với trường hợp như ở trên, chúng ta nên sửa
đổi BLDS. Nên thêm quy định cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về
chủ thể.
Không
hiếm hệ thống luật đã quy định rõ khả năng tuyên bố hợp đồng vô hiệu do có nhầm
lẫn về chủ thể tham gia hợp đồng. BLDS Pháp cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu
do nhầm lẫn về chủ thể nếu đó là nhầm lẫn về những yếu tố quan trọng của đối
tác và khi nhân thân của đối tác có vai trò quan trọng đối với quyết định giao
kết hợp đồng. Giải pháp này vẫn được giữ lại và bổ sung trong dự thảo sửa đổi
BLDS Pháp về hợp đồng. Ở Bỉ, Luxembourg, nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng cũng là một lý do làm cho hợp đồng vô hiệu khi nhân thân của chủ thể
có ảnh hưởng tới quyết định giao kết hợp đồng. Tương tự như vậy đối với pháp
luật của Áo, Tây Ban Nha…11.
Với
việc so sánh và phân tích thực tiễn Việt Nam ở trên, thiết nghĩ, chúng ta nên
bổ sung quy định về nhầm lẫn về chủ thể: một bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng khi nhân
thân của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng là quan trọng trong việc giao kết.
Chú thích:
(1)
Về chế định hợp đồng hay khế ước trong cổ luật Việt Nam, xem Bộ Tư pháp, Một số
vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb.
CTQG, 2007, tr. 57 và tiếp theo.
(2)Bản
án số 82/2008/KDTM-PT ngày 11/06/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại TP. Hồ Chí Minh.
(3)
Bản án số 380/2006/KDTM-ST ngày 01/08/2006 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
(4)Về
vụ việc này, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận
bản án, Nxb. CTQG 2009 (Tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa, bổ sung), Bản án số
12.
(5)
Quyết định số 30/2003/HĐTP-DS ngày 03/11/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
(6)
Bản án số 08/DSST ngày 9/2/1999 của Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng.
(7)Xem
G. Rouhette (chủ biên), Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, Nxb. Société de
législation comparée, 2003, tr. 198.
(8)Bản
án số 193/2006/DSPT ngày 21/7/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
(9)
Bản án số 49/2008/KDTM-PT ngày 10 tháng 04 năm 2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh.
(10)
Bản án số 18/2007/DSPT ngày 04/01/2007 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
(11)
Xem G. Rouhette (chủ biên), Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, Nxb. Société de
législation comparée, 2003, tr. 199.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ