Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo và Nghị định 01/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP (Công văn số 0805/LĐTM-PC ngày 27/5/2025)
Kiến nghị, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Nghị định 31/2021/NĐ-CP (Công văn số 0836/LĐTM-PC ngày 30/5/2025)
Kính gửi: Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 6724/BTC-PC của Bộ Tài chính về việc đề nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và nghị định số 31/2021/NĐ-CP, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến góp ý đối với Dự thảo như sau:
Luật Đầu tư là các văn bản quan trọng, tác động rất lớn tới môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta và nhận được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp. Về cơ bản, Luật Đầu tư 2020 và các luật sửa đổi, bổ sung sau này đã khắc phục được những điểm vướng, bất cập, mâu thuẫn chồng chéo giữa các hệ thống pháp luật về đất đai, xây dựng, đấu thầu, nhà ở, kinh doanh bất động sản, tài nguyên môi trường … Những lần sửa đổi sau này, Luật Đầu tư cũng đã có những bước tiến trong cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho quá trình đầu tư, khi phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền chấp thuận đầu tư từ Thủ tướng Chính phủ xuống cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (UBND tỉnh), hay thiết lập quy trình đầu tư đặc biệt theo hướng tiếp cận cởi mở, phần lớn thủ tục trong quy trình đầu tư sẽ quản lý theo cơ chế hậu kiểm …
Tuy vậy, qua quá trình thực hiện và với yêu cầu cải cách hành chính, khai thông các điểm nghẽn, thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh, Luật Đầu tư đã dần bộc lộ những hạn chế, từ tư duy đến cơ chế quản lý. Để khắc phục những vấn đề này, đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:
- Về cơ chế quản lý đối với nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
Theo quy định hiện hành, nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện đầu tư ở Việt Nam, phải có dự án đầu tư và thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Giấy CNĐKĐT) cho dự án đầu tư, sau đó thành lập doanh nghiệp để thực hiện dự án đầu tư. Doanh nghiệp này được xem là nhà đầu tư của dự án đầu tư.
Cơ chế quản lý theo hướng thực hiện thủ tục cấp Giấy CNĐKĐT trước rồi cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đang khiến cho việc không xác định được chính xác chủ thể nào là nhà đầu tư thực hiện dự án. Nhà đầu tư ban đầu được cấp Giấy CNĐKĐT hay là doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp? Điều này gây ra rất nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án đầu tư trên thực tế. Cụ thể:
– Không thể mở rộng được dự án đầu tư nếu thuộc trường hợp bị hạn chế đối với nhà đầu tư là cá nhân
Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư cho dự án đầu tư và được cấp Giấy CNĐKĐT. Trên Giấy CNĐKĐT ghi tên nhà đầu tư là nhà đầu tư cá nhân. Sau khi được cấp Giấy CNĐKĐT, nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp để thực hiện dự án đầu tư. Theo quy định tại Điều 22 Luật Đầu tư 2020, doanh nghiệp này sẽ là nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư.
Sau một thời gian, doanh nghiệp muốn mở rộng dự án, thực hiện thêm một số hoạt động nữa và thực hiện điều chỉnh Giấy CNĐKĐT để bổ sung các hoạt động này. Tuy nhiên, các hoạt động mà doanh nghiệp muốn điều chỉnh lại là dịch vụ mà Việt Nam bảo lưu là Nhà đầu tư nước ngoài phải là pháp nhân, không được là cá nhân. Trong khi đó, Giấy CNĐKĐT đang ghi nhận nhà đầu tư của dự án là “cá nhân”, không phải doanh nghiệp, vì vậy Sở Kế hoạch và Đầu tư đã từ chối không cho phép doanh nghiệp thực hiện thêm các hoạt động này.
– Không thể tăng vốn để thực hiện dự án đầu tư khác
Trường hợp khác, nhà đầu tư nước ngoài được cấp Giấy CNĐKĐT để thực hiện dự án đầu tư, sau đó thành lập doanh nghiệp để thực hiện dự án đầu tư. Doanh nghiệp này muốn thực hiện một dự án đầu tư khác tại địa phương khác. Để thực hiện dự án thứ hai, nhà đầu tư nước ngoài muốn tăng vốn, nhưng vì liên quan đến quản lý ngoại hối, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp Giấy CNĐKĐT của dự án ban đầu – văn bản pháp lý duy nhất có ghi nhận thông tin nhà đầu tư nước ngoài, với nội dung chấp thuận việc bổ sung vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, để thực hiện được việc chấp thuận bổ sung vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài tại Giấy CNĐKĐT tại dự án đầu tư ban đầu và dùng vốn này để bổ sung cho dự án đầu tư thứ hai là không có cơ sở pháp lý và không thể thực hiện được. Trong trường hợp, có sự linh hoạt để thực hiện cũng khiến cho việc thực hiện trở nên rất phức tạp và kéo dài. Đây là điều rất bất hợp lý, khi nhà đầu tư muốn tăng vốn để thực hiện các dự án đầu tư.
Để khắc phục tình trạng trên, cần thay đổi tư duy quản lý đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam, theo đó Nhà đầu tư có thể thành lập doanh nghiệp trước, khi nào doanh nghiệp đó thực hiện dự án đầu tư thì mới thực hiện ĐKĐT cho dự án.
- Về chấp thuận chủ trương đầu tư
Theo quy định hiện nay, Nhà nước sẽ thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư đối với một số dự án (được liệt kê tại Điều 30, 31, 32 Luật Đầu tư), đây là căn cứ để lựa chọn nhà đầu tư và thực hiện các bước tiếp theo thực hiện dự án đầu tư.
Nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ là sự phù hợp với các loại quy hoạch; chương trình, mục tiêu, kế hoạch phát triển nhà ở, sơ bộ cơ cấu nhà ở và việc dành quỹ đất phát triển nhà ở xã hội (đối với dự án liên quan đến nhà ở); sự phù hợp của dự án với yêu cầu bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa và các điều kiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa; đánh giá về công nghệ nếu thuộc diện phải thẩm định.
Như vậy, chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ đánh giá về việc dự án có phù hợp với những quy hoạch, kế hoạch, chương trình đã có. Đối với những nội dung khác đánh giá về công nghệ, môi trường, di sản văn hóa, ngay cả sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư, các dự án đầu tư vẫn phải thực hiện các thủ tục thẩm định về công nghệ, đánh giá tác động môi trường, các thủ tục liên quan đến di sản văn hóa theo pháp luật chuyên ngành để dự án có thể triển khai. Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư như vậy không thay thế hoặc không được xem xét là một yếu tố để thông qua các thủ tục này.
Liên quan đến tính hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư. Đây là tiêu chí khá mơ hồ và khó để để xác định được chính xác, khi bản chất đây là vấn đề của thị trường. Trên thực tế, có những dự án đầu tư được chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng không thể triển khai và triển khai không hiệu quả. Vì vậy, chấp thuận chủ trương đầu tư không phải là sự thẩm định chắc chắn của hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư.
Như vậy liệu có cần thiết phải có thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hay không? Bản thân các dự án đầu tư có thể tự xác định sự phù hợp với các loại quy hoạch, chương trình, kế hoạch – những loại thông tin đã được công khai và áp dụng trực tiếp các luật chuyên ngành.
VCCI nhận được nhiều kiến nghị, đề xuất về việc đề nghị bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư từ nhiều hiệp hội, doanh nghiệp và chuyên gia. Chúng tôi đề nghị cần đánh giá một cách tổng thể để xem xét lại tính cần thiết của thủ tục chấp thuận thủ tục đầu tư và cải cách mạnh mẽ các nhóm thủ tục về đầu tư để nhanh chóng đưa vốn vào nền kinh tế.
Ngoài ra, chúng tôi đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét một số vấn đề cụ thể liên quan đến thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư như:
2.1. Các dự án phải chấp thuận chủ trương đầu tư
Theo quy định tại Điều 31 Luật Đầu tư 2020, các dự án đầu tư “Dự án đầu tư mới kinh doanh vận chuyển hành khách bằng đường hàng không”; “Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị có quy mô sử dụng đất từ 300 ha trở lên hoặc quy mô dân số từ 50.000 người trở lên” phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. Điều này cần cân nhắc ở một số điểm sau:
– “Dự án đầu tư mới kinh doanh vận chuyển hành khách bằng đường hàng không” phải xin chấp thuận chủ trương đâu tư là chưa hợp lý, cụ thể:
Thứ nhất, kinh doanh vận chuyển hành khách bằng đường hàng không là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và pháp luật về hàng không dân dụng đã có các cơ chế kiểm soát để đảm bảo an toàn của hoạt động kinh doanh này
Thứ hai, Nhà nước đang có chính sách phát triển hàng không dân dụng theo hướng: “Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực hàng không dân dụng”. Với chính sách khuyến khích phát triển trong lĩnh vực hàng không dân dụng thì việc yêu cầu phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư mới kinh doanh vận chuyển hành khách bằng đường hàng không ở cấp Thủ tướng là chưa thực sự hợp lý. Quy định này sẽ khiến cho việc đầu tư thực hiện dự án trở nên khó khăn và là rào cản cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào lĩnh vực này.
Thứ ba, đây là dự án không yêu cầu phải sử dụng đất hoặc các nguồn lực khác của Nhà nước hoặc có yếu tố rủi ro lớn như các dự án phải chấp thuận chủ trương đầu tư khác (yếu tố rủi ro liên quan đến an toàn hàng không đã được kiểm soát tại pháp luật về hàng không dân dụng). Do đó, Nhà nước không cần thiết phải đánh giá, chấp thuận về chủ trương đầu tư đối với dự án này.
Đề nghị cân nhắc bỏ lĩnh vực này ra khỏi thủ tục phải chấp thuận chủ trương đầu tư.
– Đối với dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị: hiện nay dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị đang khá phổ biến, nhất là trong bối cảnh thị trường bất động sản đang phát triển và tốc độ đô thị hóa đang tiến triển nhanh như hiện nay. Việc xác định dự án xây dựng nhà ở, khu độ thị xác định theo quy mô sử dụng đất (trên 300 ha) hay quy mô dân số (trên 50.000 người) phải lên Thủ tướng Chính phủ là quá mức cần thiết. Việc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư cho dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị khiến cho việc triển khai dự án đầu tư lĩnh vực này trở nên khó khăn.
2.2. Về thẩm định công nghệ
Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Đầu tư, trong quá trình thẩm định hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan có thẩm quyền sẽ đánh giá về công nghệ sử dụng trong dự án đầu tư đối với các dự án thuộc diện thẩm định hoặc lấy ý kiến về công nghệ theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Đồng thời, khoản 2 Điều 13 Luật Chuyển giao công nghệ cũng quy định rằng, tại giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư, dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường và có sử dụng công nghệ thì phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm định hoặc cho ý kiến về công nghệ. Nội dung thẩm định tập trung vào việc đáp ứng điều kiện sử dụng công nghệ, tác động sơ bộ của công nghệ đến môi trường, và vấn đề đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật (khoản 1 Điều 19).
Tuy nhiên, trong giai đoạn triển khai dự án đầu tư, chủ đầu tư vẫn phải thực hiện thủ tục đánh giá tác động môi trường (ĐTM) theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, trong đó bao gồm nội dung đánh giá việc lựa chọn công nghệ và các hạng mục công trình có khả năng gây tác động xấu đến môi trường (điểm c khoản 1 Điều 32).
Như vậy, có thể thấy việc đánh giá yếu tố công nghệ có nguy cơ tác động đến môi trường được thực hiện đồng thời bởi cả cơ quan quản lý về công nghệ (ở giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư) và cơ quan quản lý môi trường (ở giai đoạn thực hiện ĐTM). Trên thực tế, việc đánh giá công nghệ ở giai đoạn đầu chủ yếu liên quan đến hiệu quả kỹ thuật, phương án vận hành, hỗ trợ kỹ thuật… – là những nội dung thuộc phạm vi xem xét của nhà đầu tư. Trong khi đó, khía cạnh tác động môi trường lại được cơ quan chuyên môn về môi trường đánh giá kỹ lưỡng trong giai đoạn sau.
Đáng lưu ý là ý kiến thẩm định hoặc cho ý kiến công nghệ trong giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư hầu như không được xem xét hoặc kế thừa trong quá trình đánh giá tác động môi trường. Điều này dẫn đến khả năng dự án dù đã được chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng vẫn có thể không được thông qua nếu báo cáo ĐTM không đạt yêu cầu.
Do đó, cần thiết phải rà soát lại quy định về thẩm quyền và nội dung đánh giá công nghệ trong giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư để rút ngắn và đơn giản hóa thủ tục.
2.2. Vai trò của thủ tục chấp thuận đầu tư đối với dự án đầu tư liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau
Chấp thuận thủ tục đầu tư đang được thiết kế là thủ tục ban đầu, xem xét tất cả các yếu tố của một dự án đầu tư như phù hợp với các loại quy hoạch, yếu tố sử dụng đất, công nghệ, mục tiêu, định hướng phát triển đô thị, hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư … Trong quá trình thẩm định chấp thuận chủ trương đầu tư có sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý ở các lĩnh vực đầu tư, tài nguyên và môi trường, công nghệ tham gia thẩm định. Tóm lại, khi một dự án đầu tư được chấp thuận chủ trương đầu tư có nghĩa là dự án đó đã đáp ứng các yếu tố để được giao đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phù hợp với các loại quy hoạch liên quan.
Tuy nhiên, đối với dự án đầu tư liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác. Mặc dù đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, trong đó có thẩm định nội dung “khả năng đáp ứng điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất đối với dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất” nhưng dự án đầu tư vẫn có thể sẽ không được chấp thuận chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp, trước khi thực hiện thủ tục quyết định chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng rừng phải được chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật đầu tư. Điều này đặt ra yêu cầu cầu cần xem xét lại vai trò, ý nghĩa và tính đầy đủ của nội dung thẩm định trong thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý khác nhau.
- Về chuyển nhượng dự án đầu tư
Điều 46 Luật Đầu chưa có quy định điều chỉnh các trường hợp được chấp thuận đầu tư và được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của pháp luật trước đây.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 46 Luật Đầu tư, các dự án mà nhà đầu tư được chấp thuận theo quy định tại Điều 29 Luật Đầu tư 2020 sẽ thực hiện chuyển nhượng dự án đầu tư theo thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư quy định tại Điều 41 Luật Đầu tư 2020. Như vậy, những dự án đầu tư được chấp thuận đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư trước Luật Đầu tư 2020 và vẫn đang hoạt động theo giấy phép này đã không được liệt kê tại điểm a và việc các dự án này có thể áp dụng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 46 nêu trên hay không để thực hiện thủ tục khi chuyển nhượng dự án đầu tư là chưa rỏ ràng.
Đối với việc chuyển nhượng dự án đầu tư không được chấp thuận chủ trương đầu tư và không có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cũng chưa được quy định rõ ràng. Trên thực tế, có những dự án đầu tư đã được thực hiện đầu tư xây dựng phù hợp với quy định pháp luật trước đây nhưng không thể thực hiện việc chuyển nhượng dự án đầu tư theo pháp luật đầu tư hiện hành.
Cụ thể, theo quy định tại Nghị định 02/2006/NĐ-CP và Thông tư 04/2006/TT-BXD, dự án cấp 2 trong khu đô thị, khi đáp ứng một số yêu cầu thì không phải thực hiện thủ tục xin phép đầu tư. Sau đó, Nghị định 11/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định 02/2006/NĐ-CP không có quy định chuyển tiếp điều chỉnh về vấn đề thủ tục đầu tư và giấy phép đầu tư đối với các dự án cấp 2 này. Do đó, các dự án này không có quyết định chủ trương đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận đầu tư, cũng như không có chấp thuận nhà đầu tư hay Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, để chuyển nhượng dự án thì dự án phải đáp ứng điều kiện là phải có quyết định chủ trương đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư (điểm d khoản 1 Điều 46 Luật Đầu tư 2020, điểm a khoản 1 Điều 40 Luật Kinh doanh bất động sản 2023). Các quy định này khiến cho nhà đầu tư không thể đáp ứng điều kiện chuyển nhượng dự án dù đã thực hiện dự án đầu tư theo đúng quy định pháp luật áp dụng tại thời điểm quyết định đầu tư.
Ngoài ra, việc chuyển nhượng các dự án cấp 2 này còn gặp khó khăn trong việc xác định thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật đầu tư hay pháp luật kinh doanh bất động sản và xác định cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chuyển nhượng dự án. Cụ thể, điểm b khoản 2 Điều 46 Luật Đầu tư 2020 quy định, “Đối với dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này, việc chuyển nhượng dự án đầu tư hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản cho nhà đầu tư tiếp nhận dự án đầu tư sau khi chuyển nhượng thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự, doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản và quy định khác của pháp luật có liên quan.”. Như vậy, có thể hiểu rằng các dự án bất động sản cấp 2 nêu trên sẽ thực hiện thủ tục chuyển nhượng theo thủ tục quy định tại pháp luật về kinh doanh bất động sản. Nhưng Điều 41 Luật Kinh doanh bất động sản lại đang quy định việc xác định thẩm quyền cho phép chuyển nhượng dự án theo cấp (Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh) đã quyết định chủ trương đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận đầu tư đối với dự án. Tức là dự án trước đó đã phải được Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận đầu tư đối với dự án.
Chính sự phụ thuộc vào căn cứ quyết định chủ trương/chấp thuận nhà đầu tư ban đầu mà các dự án nằm trong “khoảng trống pháp lý” như đã nêu trên tiếp tục gặp thêm vướng mắc trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền xử lý và rộng hơn là thủ tục chuyển nhượng dự án. Điều này đã kéo dài quá trình chuyển nhượng dự án của nhà đầu tư, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
- Về ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Luật Đầu tư đang được xem là luật gốc quy định và kiểm soát về điều kiện kinh doanh và ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Cơ chế kiểm soát của Luật Đầu tư đang được thiết kế theo hướng:
– Đặt ra nguyên tắc xác định ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
– Xác định các hình thức giấy phép kinhd oanh
– Cơ chế kiểm soát việc ban hành, đề xuất bổ sung, sửa đổi ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
– Ban hành hai Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, dường như Luật Đầu tư đang chưa thực hiện được vai trò của mình. Việc bổ sung các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Danh mục tại Phụ lục IV của Luật Đầu tư khá là dễ dàng. Và bản thân Danh mục tại Luật cũng đang tồn tại nhiều ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện chưa hợp lý. Theo thời gian, số lượng ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư đang ngày càng mở rộng hơn. Điều này dường như đi ngược lại các chương trình cải cách, thúc đẩy quyền tự do kinh doanh mà Đảng, Nhà nước đang tiến hành.
Trong bối cảnh Nghị quyết 68-NQ/TW ra đời với những đột phá về tư duy quản lý và soạn thảo chính sách kinh doanh “Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế”, cần thiết phải xem xét lại cách thức kiểm soát về điều kiện kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện và rà soát lại toàn bộ Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư.
4.1. Kiểm soát việc ban hành nghành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
Để kiểm soát việc ban hành các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và hạn chế tình trạng bổ sung bổ sung các ngành nghề kinh doanh có điều kiện chưa phù hợp, cần thiết phải đặt ra nguyên tắc việc xác định ngành nghề kinh doanh có điều kiện:
– Các đề xuất ban hành ngành nghề kinh doanh có điều kiện cần phải giải trình đầy đủ đáp ứng các mục tiêu quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư
– Đối với những ngành, nghề kinh doanh có thể được kiểm soát bằng biện pháp quản lý hành chính khác (ví dụ: quy chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa, dịch vụ; …) thì không quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
– Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cần có nguyên tắc xác định cơ chế quản lý là hậu kiểm hay tiền kiểm. Trong Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện hiện nay, theo quy định của pháp luật chuyên ngành, phần lớn cơ chế áp dụng là tiền kiểm, tức là doanh nghiệp phải xin cấp giấy phép mới được phép kinh doanh. Đề nghị nghiên cứu quy định có tính nguyên tắc xác định về hình thức kiểm soát ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chủ yếu dựa trên cơ chế hậu kiểm, đáp ứng điều kiện kinh doanh không cần cấp phép. Chỉ áp dụng hình thức cấp phép kinh doanh đối với những ngành nghề thực sự chứng minh được tính hiệu quả của việc phải kiểm soát theo hình thức tiền kiểm.
4.2. Về các ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Từ năm 2020 đến nay, Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện đã tăng lên về số lượng. Về mặt thực tế, mỗi ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Danh mục, khi quy định tại luật chuyên ngành lại có thêm những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện “con”. Vì vậy, số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện về mặt thực tế là lớn hơn con số 236 ngành nghề quy định tại Danh mục.
Để cắt giảm điều kiện kinh doanh, đề nghị cần rà soát một cách tổng thể Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư, trong đó:
– Bãi bỏ các ngành nghề có thể kiểm soát bằng quy chuẩn kỹ thuật (các loại hàng hóa đã được kiểm soát bằng quy chuẩn kỹ thuật khi lưu thông trên thị trường) hoặc biện pháp quản lý khác như: kinh doanh đóng mới, cải hoán tàu cá (mục 150); kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô (mục 72); kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa tàu biển (mục 87); kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng (mục 114); kinh doanh dịch vụ in, trừ in bao bì …
– Bãi bỏ các ngành nghề có tính chất tương tự như một ngành nghề kinh doanh thông thường, không nhận thấy mức độ tác động đến các lợi ích công cộng của các ngành nghề này như: kinh doanh dịch vụ việc làm (mục 67); kinh doanh dịch vụ cho thuê lại lao động (mục 70); kinh doanh dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư (mục 113); …
– Xác định lại phạm vi của một số ngành nghề như: kinh doanh vàng; kinh doanh bất động sản (mục 101); …
- Cơ chế quản lý đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định của Luật Đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đang được kiểm soát theo hướng:
– Xác định các ngành nghề cấm đầu tư ra nước ngoài; các ngành nghề đầu tư có điều kiện.
– Chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài: Quốc hội chấp thuận đối với những dự án có vốn 20.000 tỷ đồng trở lên; những dự án có yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định; Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho dự án có vốn từ 800 tỷ đồng trở lên); Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên;
– Cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với các hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Các nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương ra nước ngoài gồm: a) Việc đáp ứng tiêu chí xác định dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội; b) Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; c) Sự phù hợp của dự án đầu tư với quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật này; d) Hình thức, quy mô, địa điểm và tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn; đ) Đánh giá mức độ rủi ro tại nước tiếp nhận đầu tư; e) Cơ chế, chính sách đặc biệt, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và điều kiện áp dụng (nếu có).
Quy định trên có nghĩa, các dự án đầu tư ra nước ngoài bằng nguồn vốn tư nhân, có quy mô vốn trên 800 tỷ đồng, hoặc trên 20.000 tỷ đồng phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ mới được thực hiện đầu tư.
Việc doanh nghiệp tư nhân trong nước đầu tư ra nước ngoài đang dần trở thành một xu hướng phổ biến khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia chủ động hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu, đây cũng là cách thức quan trọng để nhập khẩu công nghệ, phát triển thị trường, tìm kiếm khách hàng…
Tuy nhiên, cơ chế quản lý trên đang tạo gánh nặng lớn về thủ tục cho các nhà đầu tư và chưa hợp lý, bởi các lý do:
– Hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ phải tuân thủ các quy định về đầu tư, kinh doanh tại nước sở tại. Pháp luật Việt Nam sẽ không điều chỉnh đối với các yếu tố này. Do đó, yêu cầu cơ quan nhà nước Việt Nam đánh giá về “hình thức, quy mô, địa điểm và tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn” là không khả thi và không cần thiết;
– Pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp ghi nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quyết định đầu tư, kinh doanh của mình. Do đó, Nhà nước đánh giá “sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài”, “đánh giá mức độ rủi ro tại nước tiếp nhận đầu tư” là can thiệp vào quyền tự quyết, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư.
– Đối với những ngành nghề thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông – không rõ các tác động, hoặc rủi ro gì đối với kinh tế – xã hội trong nước, để Nhà nước phải kiểm soát và chấp nhận chủ trương đầu tư trước khi đầu tư ra nước ngoài, trong khi điều chỉnh các hoạt động này lại là pháp luật của các nước sở tại.
– Đối với những hoạt động đầu tư ra nước ngoài khác (không thuộc trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài) phải thực hiện Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài là chưa phù hợp và hoàn toàn không rõ về mục tiêu quản lý. Ngay cả hoạt động đầu tư trong nước, không phải hoạt động đầu tư nào cũng yêu cầu phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thì tất cả hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều phải xin giấy phép để được đầu tư ra nước ngoài là chưa hợp lý. Trong khi, các điều kiện đầu tư lại do pháp luật nước ngoài quy định, không phải là pháp luật Việt Nam. Điều này tạo gánh nặng rất lớn về thủ tục cho nhà đầu tư, khi bất kì sự thay đổi nào của hoạt động đầu tư cũng phải thực hiện thủ tục để điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.
– Nếu có những lo ngại liên quan đến ngoại hối đã có sự quản lý của hệ thống pháp luật về ngoại hối.
Hoạt động chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước có thể là cần thiết, bởi vì nguồn vốn đầu tư là vốn của Nhà nước. Tuy nhiên, kiểm soát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nguồn vốn tư nhân, theo hình thức cấp phép, dựa vào quy mô vốn hoặc theo nhóm ngành nghề, dường như chưa tìm thấy mục tiêu rõ ràng, hợp lý nào. Trong khi đây lại là hình thức hạn chế đáng kể đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và đi ngược lại chính chủ trương “Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” đang ghi nhận tại khoản 1 Điều 51 Luật Đầu tư.
Đề nghị cân nhắc bỏ cơ chế yêu cầu phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Trên đây là một số ý kiến bước đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.