Góp ý Thông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (Công văn số 0927/LĐTM-PC ngày 12/6/2025)

Thứ Năm 10:13 12-06-2025

Kính gửi:  Bộ Tài chính

Trả lời Công văn số 5149/BTC-CST ngày 18/4/2025 của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảoThông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Các trường hợp áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% đối với hàng hoá, dịch vụ

Điều 3 Dự thảo quy định về hồ sơ, thủ tục áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% đối với hàng hoá, dịch vụ. Theo đó, Dự thảo yêu cầu người nộp thuế căn cứ hàng hoá, dịch vụ để tự xác định đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0%. Một số trường hợp ngoài việc tự xác định, cần phải cung cấp hồ sơ, thủ tục khi cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu.

– Dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, dịch vụ cho tổ chức ở trong khu phi thuế quan phục vụ sản xuất xuất khẩu

Điều 3.2.d Dự thảo quy định phải cung cấp thêm hồ sơ, thủ tục với dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, dịch vụ cho tổ chức ở trong khu phi thuế quan phục vụ sản xuất xuất khẩu. Cụ thể,người nộp thuế phải có tài liệu chứng minh dịch vụ tiêu dùng ở ngoài Việt Nam hoặc trong khu phi thuế quan phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất xuất khẩu.

Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định trên chưa rõ ràng, gây ra nhiều khó khăn nếu áp dụng thực hiện trên thực tế. Cụ thể, Dự thảo cũng đề cập đến khái niệm “tiêu dùng ở ngoài Việt Nam” nhưng chưa quy định rõ khái niệm này để làm căn cứ áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%. Do đó, rất khó để xác định như thế nào là tài liệu chứng minh dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam. Quy định này đồng thời có thể dẫn đến tình trạng các cơ quan thuế địa phương diễn giải và áp dụng không thống nhất, gây gánh nặng về thời gian và chi phí thực hiện cho doanh nghiệp.

Theo thông lệ quốc tế hiện nay, các tài liệu chứng minh cho hàng hoá, dịch vụ sử dụng tại khu phi thuế quan là những tài liệu như tờ khai hải quan, hợp đồng, hoá đơn, chứng từ vận chuyển.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ quy định trên. Theo đó, làm rõ khái niệm “tiêu dùng ở ngoài Việt Nam” hoặc áp dụng nhất quán quy định về thành phần hồ sơ như quy định tại Điều 6.2.b Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.

Hàng hoá xuất khẩu tại chỗ

Dự thảo hiện tại chưa có quy định về trường hợp áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với hàng hoá xuất khẩu tại chỗ. Dự thảo Luật Hải quan hiện đã bổ sung xuất nhập khẩu tại chỗ tại Điều 47a. Theo đó, cơ chế kiểm tra giám sát đối với hoạt động xuất nhập khẩu tại chỗ đã được quy định cụ thể, hàng hoá xuất khẩu tại chỗ được áp dụng mức thuế suất 0% như hàng hoá xuất khẩu. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung quy định hướng dẫn áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% với hàng hoá xuất khẩu tại chỗ.

  1. Tỷ lệ % tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá, dịch vụ

Điều 4 Dự thảo quy định về tỷ lệ % để tính thuế GTGT đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại Điều 12.2.b Luật Thuế giá trị gia tăng. Theo đó, nhóm các hàng hoá tại quy định này nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp theo doanh thu bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu. Trong đó, điểm b4 quy định tỷ lệ 2% cho  hoạt động kinh doanh khác. Tuy nhiên, khái niệm “hoạt động kinh doanh khác” hiện chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi xác định tỷ lệ % tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.

Ví dụ cụ thể, trong trường hợp nhà thầu nước ngoài có khoản thu tiền phạt do bên Việt Nam vi phạm hợp đồng thì khoản phạt này có được coi là “hoạt động kinh doanh khác” hay không? Điều 7 và khoản 2 Điều 13 Thông tư 103/2014/TT-BTC quy định tiền phạt, tiền bồi thường thu được từ bên đối tác vi phạm hợp đồng là hoạt động sản xuất, kinh doanh khác phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp trong các hoạt động của nhà thầu với tỷ lệ 2%. Vậy nếu khoản tiền phạt, tiền bồi thường này có được coi là hoạt động kinh doanh khác dưới Luật Thuế giá trị gia tăng và có phải chịu thuế GTGT với tỷ lệ 2% hay không?

Để đảm bảo sự rõ ràng trong việc áp dụng, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét quy định rõ như thế nào là “hoạt động kinh doanh khác”.

  1. Chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài

Điều 5 Dự thảo quy định nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam phải có chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài để khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Tuy nhiên, quy định này không phù hợp với trường hợp nhà cung cấp nước ngoài đã đăng ký nộp thuế trực tiếp trên e-portal của cơ quan thuế ở Việt Nam. Cụ thể, nhà cung cấp xuất hoá đơn theo thông lệ quốc tế và tự tính thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp để khai nộp cho cơ quan thuế Việt Nam. Trên hoá đơn, nhà cung cấp thể hiện khoản thuế GTGT đã khai nộp cho cơ quan thuế Việt Nam và yêu cầu bên Việt Nam trả lại khoản thuế GTGT này cho nhà cung cấp. Điều này có nghĩa là bên Việt Nam không trực tiếp đi nộp thuế GTGT cho cơ quan thuế Việt Nam.

Bên cạnh đó, Điều 11.1 Nghị định 70/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 123/2020/NĐ-CP về hoá đơn, chứng từ quy định trong trường hợp nhà cung cấp nước ngoài đăng ký tự nguyện sử dụng hoá đơn điện tử thì đăng ký sử dụng hoá đơn điện tử thông qua Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam của Tổng cục Thuế. Quy định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể dựa vào hoá đơn điện tử được nhà cung cấp nước ngoài đăng ký sử dụng ở Việt Nam để khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên quy định tại Dự thảo yêu cầu doanh nghiệp phải có “chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài” có thể dẫn đến cách hiểu là phía Việt Nam phải là bên kê khai nộp thuế thay cho nhà cung cấp nước ngoài. Điều này cũng tạo ra mâu thuẫn với cơ chế tự khai tự nộp theo quy định tại Nghị định 70.

Để đảm bảo tính thống nhất và minh bạch trong thủ tục, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ về trường hợp thuế GTGT của nhà cung cấp nước ngoài.

  1. Thuế GTGT áp dụng cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam

Thuế GTGT đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài vẫn là chủ sở hữu đối với hàng hoá giao cho tổ chức Việt Nam

Điều 6.1.c Dự thảo quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam uỷ quyền hoặc thuê một số tổ chức Việt Nam thực hiện một phần dịch vụ phân phối, dịch vụ khác liên quan đến việc bán hàng hoá tại Việt Nam là đối tượng áp dụng thuế GTGT. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này chưa rõ ràng và dẫn đến cách hiểu không đồng nhất trong thực tế.

Quy định này được suy đoán nhằm đảm bảo nhà thầu nước ngoài từ các doanh nghiệp nước ngoài phân phối hàng hoá tại Việt Nam mà không cần hiện diện thương mại tại Việt Nam vẫn chịu thuế quan tại Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp, tổ chức nước ngoài chỉ giao hàng tại cửa khẩu nước ngoài, không sử dụng kèm dịch vụ nào tại Việt Nam với doanh nghiệp nhận giao. Sau đó, tổ chức nước ngoài lại mua dịch vụ từ một doanh nghiệp khác. Trong trường hợp này, dịch vụ mua bổ sung sau có thuộc diện áp dụng thuế GTGT không? Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung làm rõ nội dung trên.

Đối tượng không áp dụng thuế GTGT cho tổ chức, cá nhân nước ngoài

Điều 6.2.c Dự thảo quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài có thu nhập từ dịch vụ được cung cấp và tiêu dùng ngoài Việt Nam không áp dụng thuế GTGT. Tuy nhiên, quy định này chưa hợp lý vì địa điểm cung cấp dịch vụ không quyết định phạm vi đánh thuế GTGT. Điều này cũng được phản ánh tại quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, theo đó “Hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng miễn thuế GTGT theo quy định”. Đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ cụm từ “cung cấp” trong quy định trên.

Điều 6.2.b5 Dự thảo cũng quy định không áp dụng thuế GTGT cho dịch vụ đào tạo của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp cho tổ chức Việt Nam nhưng dịch vụ được thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên, không rõ “dịch vụ đào tạo” bao gồm những dịch vụ gì? Đó là dịch vụ bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức chuyên môn, kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng thiết bị hay chỉ tập trung vào dịch vụ “đào tạo nghề nghiệp” theo quy định của Luật Giáo dục nghể nghiệp. Nếu chỉ ràng buộc ”đào tạo nghề nghiệp” theo quy định của Luật Giáo dục nghể nghiệp thì rất khó áp dụng cho nhà thầu nước ngoài (vốn dĩ không được thành lập và hoạt động theo Luật Đầu tư). Đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ về khái niệm “dịch vụ đào tạo” tại quy định trên.

– Hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT áp dụng cho tổ chức, cá nhân nước ngoài

Điều 6.3.b Dự thảo quy định áp dụng thuế GTGT đối với hàng hoá được cung cấp theo hợp đồng dưới hình thức điểm giao nhận hàng hoá nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Quy định này không thống nhất với quy định tại khoản 2 Điều này. Cụ thể, điểm b1, b2 Điều 6.2 Dự thảo quy định không áp dụng thuế GTGT đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam giao hàng tại cửa khẩu Việt Nam hoặc tại cửa khẩu nước ngoài. Điểm nhận không được nhắc đến tại quy định này. Đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bỏ “điểm nhận” tại quy định của Điều 6.3.b Dự thảo.

– Thuế GTGT áp dụng với Nhà thầu nước ngoài

Điều 6.7.b2 Dự thảo quy định nhà thầu nước ngoài chuyển hóa đơn, chứng từ phát sinh trong kỳ khai thuế giá trị gia tăng cho bên Việt Nam để bên Việt Nam khai khấu trừ, nộp thay thuế giá trị gia tăng cho nhà thầu nước ngoài. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này không rõ ràng, khó hiểu, gây ra tình trạng không biết áp dụng thực tế như thế nào. Nhằm tạo điều kiện thực hiện cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc có thêm hướng dẫn hoặc làm rõ quy định này.

  1. Tổ chức thu thuế GTGT

Điều 22 Dự thảo quy định cơ quan thuế chịu trách thu, hoàn thuế đối với cơ sở kinh doanh, trong khi đó cơ quan hải quan chịu trách nhiệm quản lý thuế đối với hàng hoá nhập khẩu. Theo phản ánh của doanh nghiệp, việc phân định tổ chức quản lý thuế này có thể gây ra sự chồng chéo trong hoàn thuế giữa hai cơ quan trên. Ví dụ cụ thể, tại thời điểm nhập khẩu tờ khai A tháng N (mở nợ form D, đóng thuế nhập khẩu 15%, VAT 10%), doanh nghiệp sẽ nhập các tờ khai vào danh sách khấu trừ thuế GTGT tại tháng N+1. Vài tháng sau N+1, doanh nghiệp mới nhận được form D và hoàn thuế nhập khẩu cho tờ khai A. Lúc này vì đã hoàn thuế GTGT tại cơ quan thuế địa phương nên không hoàn thuế GTGT tại hải quan nữa để tránh hoàn trùng. Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc quy định cơ quan thuế chịu trách nhiệm thu và hoàn thuế GTGT đối với cả cơ sở nhập khẩu ngoại trừ trường hợp hàng hóa không thực nhập khẩu vào Việt Nam (buộc phải tái xuất ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc hủy tờ khai theo quy định).

  1. Trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt trong khấu trừ thuế GTGT

Dự thảo chưa có quy định cụ thể về việc hoá đơn thanh toán không dùng tiền mặt trong trường hợp uỷ quyền cho người lao động thanh toán.

Hiện nay, Công văn 5465/TCT-KK của Tổng cục Thuế (nay là Cục Thuế) đã hướng dẫn cho phép doanh nghiệp có chính sách cho người lao động sử dụng thẻ tín dụng cá nhân để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, sau đó doanh nghiệp sẽ thanh toán lại cho cá nhân. Việc thực hiện đã được quy định chặt chẽ, cụ thể:

– Việc thanh toán phải quy định cụ thể tại quy chế quản lý tài chính của doanh nghiệp hoặc Quyết định về việc ủy quyền của doanh nghiệp cho cá nhân;

– Các khoản chi đều có đầy đủ hồ sơ, chứng từ chứng minh hàng hóa, dịch vụ được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gồm: hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ mang tên và mã số thuế của Công ty; hồ sơ liên quan đến việc ủy quyền của doanh nghiệp cho cá nhân thanh toán với người bán và thanh toán lại với doanh nghiệp; chứng từ chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng của cá nhân;

– Doanh nghiệp phải thanh toán từ ngân hàng từ tài khoản của doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan thuế; và phải lập danh sách các tài khoản thẻ tín dụng cá nhân của người lao động được ủy quyền;

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định quy phạm hoá nội dung trên trong Dự thảo.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảoThông tư quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT). Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

Các văn bản liên quan