Góp ý sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2003 – Trương Tuệ Minh – Chấp hành viên Chi Cục Thi hành án dân sự quận 5, TP Hồ Chí Minh

Thứ Năm 15:29 25-08-2011

THAM LUẬN

GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA

LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2003

 

 

Trương Tuệ Minh

Chấp hành viên Chi Cục Thi hành án dân sự quận 5

 

 

Luật Đất đai năm 2003 đã thể chế hóa đường lối đổi mới của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 12/3/2003 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đẩi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua quá trình thực hiện đến nay Luật Đất đai năm 2003 đã góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trước những tác động của nền kinh tế thị trường và sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ, một số Điều luật đã thể hiện sự bất cập, thiếu thống nhất trong việc triển khai thi hành trên thực tế. Để góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về đất đai mà nền tảng là Luật Đất đai, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Đất đai năm 2003 như sau:

1. Điều 13 Luật Đất đai về phân lọai đất chỉ quy định 3 nhóm đất: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng (trong đó không có lọai đất vườn ao) nên việc xác định đất vườn, ao để hỗ trợ trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gắp khó khăn, không xác định được. Tại Điều 21 Nghị định 69/2009/NĐ-CP có quy định hỗ trợ đối với đất vườn, ao trong khu dân cư nhưng không quy định đối với các lọai đất nông nghiệp khác mà không phải là đất vườn, ao nên khi áp dụng còn lúng túng và dẫn dẫn đến khiếu kiện của người dân. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định đối với đất vườn, ao vào các lọai đất nông nghiệp trong Luật Đất đai.

2.  Điều 25 Luật Đất đai về lập quy họach, kế hoạch sử dụng đất: đề nghị bỏ quy định quy họach sử dụng đất của xã, phường, thị trấn được lập chi tiết gắn với thửa đất (quy hoạch sử dụng đất chi tiết) mà chỉ tiến hành lập quy họach sử dụng đất của xã, phường, thị trấn. Đồng thời đề nghị quy định cụ thể việc lập quy hạoch, mối liên hệ giữa các quy họach trên cùng một đơn vị hành chính cấp xã (quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng, quy hoạch điểm dân cư nông thôn).

3.  Điều 31 Luật Đất đai về căn cứ để giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đề nghị điều chỉnh quy định việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, trường hợp không có quy họach sử dụng đất mới căn cứ vào quy họach xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn nhằm tránh trường hợp giữa các quy hoạch có sự chưa thống nhất, khó khăn trong việc áp dụng.

4. Điều 43 Luật Đất đai về những trường hợp thu hồi đất mà không bồi thường: bổ sung quy định đối với đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng có nguồn gốc nhận chuyển nhượng, không do Nhà nước giao hoặc cho thuê thì được bồi thường khi Nhà nước thu hồi. Bên cạnh đó, bổ sung quy định về đất có công trình thờ tự của các cơ sở tôn giáo sử dụng (có nguồn gốc không phải do Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất) thì khi Nhà nước thu hồi đất có bồi thường hay không bồi thường.   

5.  Điều 56 Luật Đất đai về giá đất do Nhà nước quy định, đề nghị bỏ quy định việc định giá của Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường… vì trong thực tế việc triển khai thực hiện quy định này rất khó khăn do khó xác định được giá thực tế giao dịch trên thị trường trong khi giá giao dịch pháp lý (giá trong trường hợp đồng chuyển nhượng) thường thấp hơn nhiều so với giá giao dịch thực tế.

6. Điều 64 Luật Đất đai về cơ quan quản lý đất đai, đề nghị điều chỉnh hệ thống Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất 01 cấp; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện trực thuộc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh và thực hiện theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh có thể lập Chi nhánh tại các khu vực.

7.  Điều 67 Luật Đất đai về đất sử dụng có thời hạn, tại khoản 1 quy định về thời hạn giao đất, cho thuê đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối là 20 năm. Thời hạn này quá ngắn, đề nghị điều chỉnh thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với các trường hợp này là 50 năm nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng đất an tâm đầu tư sản xuất.

8.  Điều 87 Luật Đất đai về xác định diện tích đất đối với trường hợp có vườn, ao, tại khỏan 1 quy định "Đất vườn, ao được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư". Nhưng các quy định về cấp Giấy chứng nhận và thực hiện các thủ tục về đất đai, bồi thường không có quy định đối với lọai đất này. Vì vậy, đề nghị bỏ quy định tại Khoản 1 Điều 87 mà bổ sung quy định vế đất vườn ao vào lọai đất nông nghiệp tại Điều 13.

9.  Điều 89 Luật Đất đai về đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh không có quy định trường hợp đất quốc phòng kết hợp làm kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều đơn vị quốc phòng sử dụng đất vào mục đích làm kinh tế. Do vậy, cần bổ sung quy định điều chỉnh đới với trường hợp này để thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai được thuận lợi.

10. Điều 105, Điều 106 Luật Đất đai quy định về quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nội dung này được hướng dẫn tại Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên các nội dung này rất khó thực hiện đối với trường hợp người sử dụng đất trong vùng dự án và không có khả năng tài chính. Vì vậy, đề nghị sửa đổi điều kiện góp vốn quyền sử dụng đất theo hướng cho phép hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp với tổ chức để thực hiện dự án đầu tư (không phải thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất trước khi thực hiện thủ tục nhà đầu tư thuê quyền sử dụng đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất).

11. Điều chỉnh Điều 122 Luật Đất đai về hồ sơ xin giao đất của nhà đầu tư phải có đơn xin giao đất, giấy phép đầu tư (quyết định đầu tư) và hồ sơ dự án mới được giao đất để phù hợp với Điều 37 Luật Xây dựng.

12. Điều 138 Luật Đất đai về giải quyết khiếu nại về đất đai, đề nghị điều chỉnh quy định phù hợp với Điều 46 Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi năm 2005: Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết lần hai, người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án sau khi nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Đồng thời, đề nghị quy định tăng thời gian giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai để giảm bớt áp lực về thời gian, nhất là các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất trải qua nhiều giai đọan; bổ sung cụ thể về mốc lịch sử các trường hợp nào bị thu hồi đất từ trước ngày 01/7/2004 thì không thụ lý giải quyết.

Trên đây là một số ý kiến góp ý sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Đất đai năm 2003 xin gửi đến Hội thảo nghiên cứu, xem xét.

 

 

Các văn bản liên quan