Góp ý của Ông Trần Quang Minh và chị Đỗ Hiền Trang

Thứ Sáu 14:43 22-02-2008

BẢN GÓP Ý LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 
 
Kính gửi: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)

 

 Nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, góp phần phục vụ lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp cũng như lợi ích chung của toàn thể xã hội, với tư cách một luật gia nghiên cứu lĩnh vực này, tôi xin được gửi đến hội thảo do VCCI tổ chức một số ý kiến cụ thể dưới đây.

Trước hết, tôi hoàn toàn nhất trí với những mục tiêu mà Tờ trình đã đặt ra đối với việc xây dựng dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhìn chung, những mục tiêu xây dựng dự thảo đã đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tôi cũng nhất trí với nội dung cơ bản của dự thảo.

Tuy nhiên, tôi cũng có những ý kiến khác đối với một số quy định của dự thảo, cụ thể như sau:

1. Điều kiện xác định các khoản chi phí được trừ (Điều 7) và các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế (Điều 8)

Theo Tờ trình Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, quy định mới của dự thảo về điều kiện để xác định những khoản chi được phép trừ khi xác định thu nhập chịu thuế (Điều 7) và những khoản chi không được trừ  (Điều 8) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong hạch toán kinh doanh, thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp, tự xác định nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, khi phân tích nội dung cụ thể hai Điều luật, có thể thấy một vấn đề là mặc dù Điều 8 liệt kê những khoản chi không được trừ nhưng do Điều 7 quy định hai điều kiện để được xác định là khoản chi được trừ, nên còn có những khoản chi không thuộc Điều 8, nhưng  không đáp ứng được một hoặc hai điều kiện quy định tại Điều 7. Vậy những khoản chi này sẽ được giải quyết như thế nào? Rõ ràng, theo Điều 7 thì những khoản chi này cũng sẽ bị trừ và Điều 8 đã quy định thiếu những khoản chi không được trừ.

2. Việc đánh thuế đối với thu nhập từ lãi tiền gửi

Đối với thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của dự thảo Luật này và quy định hiện hành của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003. Ngược lại, cá nhân không phải là chủ doanh nghiệp tư nhân được miễn thuế theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, pháp luật về thuế đã có những quy định mâu thuẫn nhau đối với cùng một chủ thể là “cá nhân”.

Ngoài ra, việc xác định tiền gửi của một cá nhân tại tổ chức tín dụng có phải thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật này hay được miễn thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân là rất khó khăn. 3. Nơi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp

Dự thảo Luật quy định “hai cửa” nộp thuế là “nơi có trụ sở chính” và “nơi có cơ sở kinh doanh” của doanh nghiệp. Đối với quy định này, tôi thấy có một số vấn đề sau:

Thứ nhất, theo kết quả khảo sát của một số tổ chức và nội dung phản ảnh trên những phương tiện thông tin đại chúng từ trước đến nay, việc giải quyết công việc của cơ quan thuế còn nhiều bất cập, thời gian giải quyết kéo dài ảnh hưởng lớn đến lợi ích của doanh nghiệp. Vậy việc nộp thuế của doanh nghiệp tại “một cửa” đã gặp nhiều khó khăn như trên, nay dự thảo quy định từ  “hai cửa” nộp thuế trở lên (đối với doanh nghiệp có nhiều cơ sở kinh doanh) sẽ làm tăng những khó khăn của doanh nghiệp, ví dụ như chi phí tăng do phải làm thủ tục nộp thuế tại hai cơ quan, khó khăn trong trường hợp các cơ quan thuế không thống nhất việc phân bổ v.v.. Theo một lối nói tượng trưng, khó khăn của doanh nghiệp tăng, tối thiểu hai lần trở lên.

Việc giải quyết vấn đề phân bổ nguồn thu thuế doanh nghiệp giữa trung ương và địa phương không chỉ dựa trên lợi ích của các cơ quan Nhà nước mà còn phải dựa trên lợi ích của doanh nghiệp, trong đó, lợi ích của doanh nghiệp phải được đặt lên trước (đối với vấn đề này). Mặt khác, có thể nhìn nhận việc phân bổ nguồn thuế là vấn đề riêng giữa các cơ quan nhà nước, nên do chính các cơ quan nhà nước tự giải quyết với nhau.

Do đó, dự thảo nên sửa đổi quy định nơi nộp thuế thu nhập theo hướng quy định nhiều nơi nộp thuế, nhưng doanh nghiệp có quyền lựa chọn chỉ nộp thuế tại nơi có trụ sở chính hoặc vừa nộp thuế tại nơi có trụ sở chính vừa nộp thuế tại nơi có cơ sở kinh doanh. Trong trường hợp doanh nghiệp nộp thuế tại một nơi, là nơi có trụ sở chính, thì các cơ quan thuế nhà nước ở trung ương và địa phương phải tự thực hiện việc phân bổ nguồn thu thuế với nhau.

Thứ hai, quy định của dự thảo chỉ phù hợp với doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. Quy định này không xác định rõ nơi nộp thuế của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có trụ sở chính tại nước ngoài, cơ sở thường trú quy định tại khoản 3 Điều 2 dự thảo Luật.

Do đó, cần sửa đổi quy định của dự thảo để xác định được rõ ràng nơi nộp thuế của tất cả những đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. 4. Việc trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp

Tôi hoàn toàn nhất trí quy định của dự thảo cho phép doanh nghiệp được trích tối đa 10% trên thu nhập chịu thuế hàng năm để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp và miễn thuế đối vối phần trích lập Quỹ này nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, tôi thấy quy định của dự thảo còn một số vấn đề như sau:

Một là, việc yêu cầu doanh nghiệp sử dụng hết tối thiểu 70% phần trích lập Quỹ để được miễn thuế đối với phần trích lập là không hợp lý, vì việc sử dụng nguồn Quỹ của doanh nghiệp trong thực tế phải căn cứ vào tính hiệu quả của những nội dung phát triển khoa học và công nghệ cũng như những yêu cầu, biến động của thực tiễn. Do đó, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hơn hoặc ít hơn 70 % phần trích lập Quỹ nêu trên. Quy định của dự thảo dường như đã áp đặt cho các doanh nghiệp một loại chỉ tiêu mang tính hành chính trong việc việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của mình, thúc đẩy việc sử dụng không hiệu quả hoặc kê khai thiếu trung thực việc sử dụng Quỹ này nhằm đạt chỉ tiêu kể trên.

Hai là, đối với hành vi sử dụng không đúng mục đích Quỹ này, Nhà nước cũng chỉ nên đánh thuế đối với phần quỹ được sử dụng không đúng mục đích kết hợp với một khoản tiền phạt, không nên đánh thuế đối với phần trích lập khác đã được sử dụng đúng mục đích.

Trên đây là một số ý kiến của chúng tôi đối với dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, xin kính gửi Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam nghiên cứu, chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm xây dựng dự thảo Luật này./.

                     Nhóm tác giả: Trần Quang Minh – Luật gia, Đỗ Hiền Trang
 
 
 

Các văn bản liên quan